Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội tháng 3 và quý I năm 2025
- 02/04/2025 23:34
Kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội quý I năm 2025 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; sức ép cạnh tranh gia tăng ở thị trường xuất khẩu cùng căng thẳng hàng rào thương mại, thuế quan để bảo hộ sản xuất; việc thay đổi chính sách của một số nền kinh tế lớn, áp lực tỷ giá tiềm ẩn rủi ro đối với tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Bất ổn địa chính trị gia tăng, lạm phát giảm chậm buộc hầu hết các nước tiếp tục thực hiện thắt chặt tiền tệ đã tác động đến kinh tế thế giới và khu vực, trong đó có Việt Nam. Đối với Thủ đô Hà Nội, ngay từ đầu năm Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố đã chỉ đạo các cấp, các ngành và địa phương triển khai quyết liệt các Nghị quyết của Trung ương; thực hiện nhiệm vụ trong Chương trình hành động, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội Thành phố năm 2025. Nhờ đó, kinh tế Thành phố có nhiều điểm sáng và tăng trưởng tích cực, an sinh xã hội được đảm bảo. Kết quả cụ thể các ngành, lĩnh vực quý I/2025 như sau: I. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1. Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý I/2025 ước tính tăng 7,35% so với cùng kỳ năm trước, mức tăng cao trong 5 năm gần đây. Trong bối cảnh tình hình kinh tế thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động sản xuất trong nước, Thành phố đạt được kết quả tăng trưởng tích cực trong quý I/2025 cho thấy tính kịp thời, hiệu quả các giải pháp trong chỉ đạo, điều hành, thực hiện mục tiêu, các chỉ tiêu phát triển, nhiệm vụ và các giải pháp đột phá của từng ngành, từng lĩnh vực với tinh thần “tầm nhìn mới - tư duy mới toàn cầu, tư duy Thủ đô và hành động Hà Nội”. Trong quý I/2025, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước tính tăng 3,09%, đóng góp 0,06 điểm % vào mức tăng GRDP chung của Thành phố. Những tháng đầu năm 2025, thời tiết tương đối thuận lợi cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Đến nay, Thành phố đã thu hoạch xong cây màu vụ Đông, lúa và cây màu vụ Xuân sinh trưởng, phát triển tốt; công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng được quan tâm thực hiện. Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát, hoạt động tái đàn được quan tâm; sản lượng thịt gia súc, gia cầm quý I/2025 tăng so với cùng kỳ năm trước (thịt trâu tăng 1,1%; thịt lợn tăng 3%; thịt gia cầm tăng 3,3%); sản lượng thủy sản tăng 3,9%. Khu vực công nghiệp, xây dựng quý I/2025 ước tính tăng 5,54%, đóng góp 0,96 điểm % vào mức tăng GRDP. Ngành công nghiệp ngay từ tháng đầu năm đã nỗ lực tăng trưởng tích cực với mục tiêu đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm; sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán, 100% các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố mở xưởng hoạt động trở lại, nhanh chóng bắt tay vào sản xuất; 99,5% công nhân đi làm ngay ngày đầu của năm mới, đảm bảo sản xuất các đơn hàng trong nước và xuất khẩu, tiếp tục chuẩn bị cho đơn hàng trong quý II/2025. Ước tính giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý I/2025 tăng 5,36% (quý I/2024 tăng 5,09%) đóng góp 0,63 điểm % vào mức tăng chung (trong đó: Ngành chế biến, chế tạo tăng 5,57%; sản xuất phân phối điện tăng 5,30%; hoạt động cung cấp nước và xử lý, nước thải tăng 2,24%). Ngành xây dựng với sự vào cuộc quyết liệt của Thành phố, nhằm bảo đảm triển khai hiệu quả kế hoạch đầu tư công năm 2025 với mục tiêu giải ngân vượt kế hoạch vốn được giao, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Thủ đô, thành phố Hà Nội đã chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu và các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm, phát triển hạ tầng, kỹ thuật. Dự kiến trong năm nay, Thủ đô sẽ có 11 dự án nhà ở xã hội hoàn thành, cung cấp gần 6.000 căn hộ, tương đương 345 nghìn m2 sàn xây dựng. Giá trị tăng thêm ngành xây dựng quý I/2025 ước tăng 5,9% so với cùng kỳ (quý I/2024 tăng 5,72%), đóng góp 0,33 điểm % vào mức tăng chung. Khu vực dịch vụ có nhiều tín hiệu khởi sắc khi Thành phố cùng doanh nghiệp kinh doanh thương mại và các hệ thống bán lẻ triển khai nhiều giải pháp kích cầu tiêu dùng, đa dạng hóa phương thức bán hàng linh động; các sàn thương mại điện tử có nhiều chương trình khuyến mại cùng chính sách, dịch vụ giúp khách hàng mua sắm thuận tiện và thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, nhất là các gói chương trình hàng Việt, các chương trình ưu đãi lớn, giảm giá, khuyến mại, miễn phí vận chuyển và các chương trình ưu đãi riêng cho khách hàng thanh toán trực tuyến. Bên cạnh đó, quý I là thời điểm diễn ra các hoạt động Lễ hội sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ và Lễ hội Xuân 2025 nên các hoạt động dịch vụ vận tải, du lịch, nhà hàng, khách sạn diễn ra sôi động, có nhiều điểm sáng. Tăng trưởng khu vực dịch vụ quý I/2025 ước tính đạt 8,34%, đóng góp 5,82 điểm % vào mức tăng GRDP. Các ngành dịch vụ đóng góp nhiều vào mức tăng trưởng chung của Thành phố: Thông tin và truyền thông tăng 7,10%, đóng góp 1,13 điểm %; vận tải, kho bãi tăng 12,26%, đóng góp 1,09 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 7,83%, đóng góp 0,84 điểm %; tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,0%, đóng góp 0,79 điểm %; hành chính và dịch vụ hỗ trợ (bao gồm lĩnh vực du lịch, lữ hành) tăng 15,62%, đóng góp 0,63 điểm %; hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ tăng 6,12%, đóng góp 0,37 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 7,87%, đóng góp 0,33 điểm %; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 12,10%, đóng góp 0,21 điểm %; quản lý Nhà nước tăng 9,98%, đóng góp 0,15 điểm %; kinh doanh bất động sản tăng 2,78%, đóng góp 0,12 điểm %; y tế và trợ giúp xã hội tăng 7,22%, đóng góp 0,1 điểm %; nghệ thuật vui chơi, giải trí tăng 6,02%, đóng góp 0,03 điểm %; dịch vụ khác tăng 3,60%, đóng góp 0,02 điểm %; dịch vụ làm thuê các công việc trong các hộ gia đình tăng 7,62%, đóng góp 0,01 điểm %. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm quý I ước tính tăng 4,69%, đóng góp 0,51 điểm % mức tăng GRDP. Cơ cấu GRDP quý I/2025, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2,05%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 17,83%; khu vực dịch vụ chiếm 69,99%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,13% (cơ cấu GRDP quý I/2024 tương ứng là: 2,08%; 18,39%; 69,14% và 10,39%).2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản Quý I/2025, Thành phố đã thu hoạch xong cây màu vụ Đông, thực hiện gieo cấy lúa Đông Xuân sớm hơn cùng kỳ năm trước; công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng tiếp tục được quan tâm chú trọng. Chăn nuôi lợn và gia cầm phát triển ổn định, dịch bệnh được kiểm soát. Sản xuất lâm nghiệp chủ yếu trồng rừng theo kế hoạch, thực hiện “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” Xuân Ất Tỵ 2025. Nuôi trồng thủy sản thuận lợi, sản lượng thủy sản tăng so với cùng kỳ năm trước.2.1. Nông nghiệp Kết quả sản xuất vụ Đông: Diện tích cây trồng vụ Đông trên địa bàn Thành phố đạt 27,5 nghìn ha, bằng 99,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Diện tích Ngô đạt 5 nghìn ha, bằng 90,1%; sản lượng đạt 26 nghìn tấn, bằng 89,3%. Khoai lang 886 ha, bằng 99,3%; sản lượng 8,5 nghìn tấn, tăng 1,8%. Đậu tương 790 ha, tăng 9,6%; sản lượng 1,5 nghìn tấn, tăng 16,2%. Lạc 188 ha, bằng 83,8%; sản lượng 428 tấn, bằng 85,9%. Đậu các loại 37 ha, bằng 36,6%; sản lượng 66 tấn, bằng 36,7%. Rau các loại 14,6 nghìn ha, tăng 1,6%; sản lượng 333,7 nghìn tấn, tăng 2,2%. Điều kiện thời tiết vụ Đông năm nay thuận lợi, nhất là đối với sản xuất nhóm cây rau, đậu, hoa và cây có hạt chứa dầu. Năng suất rau các loại 228,8 tạ/ha, tăng 1,4 tạ/ha so cùng kỳ; đậu tương 19,6 tạ/ha, tăng 1,1 tạ/ha; lạc 22,7 tạ/ha, tăng 0,5 tạ/ha; khoai lang 96,4 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha; ngô 52,1 tạ/ha, giảm 0,5 tạ/ha so với cùng kỳ năm trước. Tình hình sản xuất vụ Xuân: Tính đến ngày 20/3/2025, Thành phố đã gieo trồng được 79,8 nghìn ha lúa vụ Xuân, bằng 98,5% cùng kỳ năm trước; 3,2 nghìn ha ngô, tăng 9,5%; 173 ha khoai lang, bằng 80,8%; 119 ha đậu tương, bằng 77,3%; 1,1 nghìn ha lạc, bằng 91,9%; 8,9 nghìn ha rau, tăng 1,7%; 221 ha đậu, tăng 13,9%. Hiện nay lúa và cây màu vụ Xuân sinh trưởng và phát triển theo đúng khung thời vụ. Các ngành chức năng đang tập trung chỉ đạo địa phương hướng dẫn người dân bảo vệ và chăm sóc tốt cây trồng; thường xuyên kiểm tra, theo dõi tình hình sâu bệnh gây hại để có biện pháp phòng trừ kịp thời, hiệu quả. Tính chung vụ Đông Xuân năm nay, toàn Thành phố ước tính gieo trồng được 79,8 ha lúa, bằng 98,5% so cùng kỳ; ngô 8,2 ha, bằng 96,8%; khoai lang 1,1 nghìn ha, bằng 95,8%; đậu tương 909 ha, bằng 103,9%; lạc 1,3 nghìn ha bằng 90,6%; rau các loại 23,4 nghìn ha, bằng 101,6%; đậu các loại 258 ha, bằng 87,8% so với vụ Đông Xuân năm 2024. Cây lâu năm: Diện tích trồng cây lâu năm trên địa bàn Thành phố đến nay ước đạt 23,2 nghìn ha, bằng 97,3% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả đạt 19,6 nghìn ha, bằng 97,5%; cây lấy quả chứa dầu 24 ha, tăng 9,1%; cây chè 1,9 nghìn ha, bằng 94,5%; cây gia vị, dược liệu lâu năm 227 ha, bằng 94,2%; cây lâu năm khác 1,5 nghìn ha, bằng 99,3%. Tính chung từ đầu năm đến nay, ước tính sản lượng một số cây trồng chủ yếu: Chuối 25 nghìn tấn, tăng 1,3% so với cùng kỳ; ổi 3,1 nghìn tấn, tăng 0,5%; táo 9,8 nghìn tấn, tăng 2,4%; chè búp 2,5 nghìn tấn, bằng 96,7%. Sản xuất cây lâu năm trên địa bàn Thành phố đang dần hồi phục sau ảnh hưởng của cơn bão số 3 YAGI năm trước, đặc biệt là nhóm cây ăn quả và cây cảnh chịu ảnh hưởng nặng của bão. Chăn nuôi: Hoạt động chăn nuôi cơ bản thuận lợi, không xảy ra dịch bệnh lớn trên đàn gia súc, gia cầm. Các cơ sở chăn nuôi bám sát diễn biến thị trường để có kế hoạch tái đàn phù hợp, đáp ứng nhu cầu thực phẩm của người dân Thủ đô sau dịp Tết. Đến nay, đàn trâu có 28,8 nghìn con, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm 2024; đàn bò 119 nghìn con, giảm 3,7%; đàn lợn 1,25 triệu con, giảm 1,7%; đàn gia cầm 35,8 triệu con, tăng 0,6% (đàn gà 27 triệu con, tăng 0,4%). Tính chung quý I/2025, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 532 tấn, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2024; thịt bò 2,7 nghìn tấn, giảm 2%; thịt lợn 66,1 nghìn tấn, tăng 3%; thịt gia cầm 42,9 nghìn tấn, tăng 3,3% (thịt gà 32,3 nghìn tấn, tăng 3,2%); trứng gia cầm 368 triệu quả, tăng 4,1%. 2.2. Lâm nghiệp và thủy sản Lâm nghiệp: Những tháng đầu năm, sản xuất lâm nghiệp tập trung triển khai trồng mới cây lâm nghiệp phân tán, trồng rừng và chăm sóc, bảo vệ, phòng chống cháy rừng. Diện tích rừng trồng mới tập trung tháng Ba ước đạt 50 ha, giảm 2% so với cùng kỳ năm 2024; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 197 nghìn cây, giảm 4,4%; sản lượng gỗ khai thác đạt 1,7 nghìn m3, giảm 4%. Tính chung quý I/2025, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 50 ha, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 264 nghìn cây, giảm 4,3%; sản lượng gỗ khai thác đạt 5 nghìn m3, giảm 4%; sản lượng củi đạt 185 ste, tăng 2,8%. Cũng trong quý I/2025 trên địa bàn Thành phố xảy ra 04 vụ cháy rừng tại huyện Sóc Sơn với diện tích 2 ha chủ yếu là thảm thực bì, không gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng; 01 vụ phá rừng phòng hộ tại huyện Chương Mỹ với diện tích rừng 0,5 ha. Thủy sản: Sản xuất thủy sản trong quý trên địa bàn phát triển ổn định. Nuôi trồng thủy sản được Thành phố xác định theo hướng phát triển bền vững, thân thiện với môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu. Các mô hình nuôi trồng hữu cơ, sinh thái, áp dụng các tiêu chuẩn chứng nhận thực hành nuôi trồng thủy sản tốt (GAP) sẽ được khuyến khích để nâng cao giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng các vùng nuôi trồng thủy sản theo hướng tập trung công nghệ cao, nuôi thâm canh nhằm tăng năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm thủy sản. Sản lượng thủy sản trong tháng Ba ước đạt 9,3 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng cá), tăng 3,9% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 9,3 nghìn tấn, tăng 3,9%. Ước tính quý I/2025, tổng sản lượng thủy sản đạt 27,8 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng thủy sản nuôi trồng cá), tăng 3,9% so với cùng kỳ năm trước. 3. Sản xuất công nghiệp Hoạt động sản xuất công nghiệp những tháng đầu năm tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực, các doanh nghiệp nhận được nhiều đơn hàng xuất khẩu cùng với sự vào cuộc quyết liệt của Thành phố trong chỉ đạo, điều hành, triển khai thực hiện các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) quý I/2025 ước tính tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó IIP tháng Ba tăng 5,2%. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Ba ước tăng 6,5% so với tháng trước và tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,5% và tăng 5,3%; sản xuất và phân phối điện tăng 4,7% và tăng 4,6%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 9,9% và tăng 6,6%; ngành khai khoáng tăng 0,5% và giảm 0,5%. Ước tính quý I/2025, chỉ số IIP tăng 4,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 4,8%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 2,2%; khai khoáng giảm 5,4%. Trong quý I năm nay, một số ngành chế biến, chế tạo đạt mức tăng khá cao so với cùng kỳ như: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 44,8%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 15,5%; dệt tăng 14,2%; sản xuất xe có động cơ tăng 13,4%; sản xuất kim loại tăng 12,3%; sản xuất trang phục tăng 7,9%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc và thiết bị tăng 18,7%. Bên cạnh đó, một số ngành giảm so với cùng kỳ: Sản xuất thiết bị điện giảm 7,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 7,2%; in, sao chụp bản ghi giảm 3,6%; sản xuất phương tiện vận tải giảm 1,4%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 0,9%. Chỉ số tiêu thụ sản phẩm toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Ba tăng 12,4% so với tháng trước và tăng 5,1% so với cùng kỳ năm 2024. Ước tính quý I/2025, chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 2,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 59,1%; sản xuất kim loại tăng 32,5%; sản xuất trang phục tăng 10,3%; sản xuất da tăng 9,8%; sản xuất xe có động cơ tăng 7,0%. Một số ngành chỉ số tiêu thụ giảm: Sản xuất phương tiện vận tải giảm 24%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 16,3%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 15,7%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) giảm 13,4%; in, sao chép bản ghi giảm 12,9%. Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính thời điểm 31/3/2025 giảm 2,9% so với cuối tháng trước và giảm 6,3% so với cuối quý I/2024. Một số ngành có chỉ số tồn kho giảm so với cùng kỳ: Sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 61,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 48%; sản xuất trang phục giảm 29,7%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 26,1%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 23,5%. Một số ngành công nghiệp có chỉ số tồn kho tăng: Dệt tăng 133,9%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 40,9%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ, tre, nứa tăng 32,6%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 26%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ước đến cuối tháng 3/2025 tăng 0,5% so với cuối tháng trước và tăng 0,6% so với cùng thời điểm năm trước. Ước tính quý I/2025, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,4% so với quý I/2024, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,5%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 3,9%; khu vực Nhà nước giảm 0,7%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo tăng 0,5% (trong đó sản xuất máy móc, thiết bị tăng 32,2%; sản xuất trang phục tăng 6,7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 4,1%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 4,1%); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt tương đương quý trước; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,4%; ngành khai khoáng giảm 33,6%. 4. Đầu tư và xây dựng Ngay từ đầu năm, đầu tư từ ngân sách Nhà nước được triển khai thực hiện quyết liệt, hiệu quả, góp phần tạo động lực tăng trưởng kinh tế. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn quý I/2025 tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước; vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý cao nhất cả nước, đạt 14,3 nghìn tỷ, tăng 43,8%; thu hút đầu tư nước ngoài đứng thứ 3 cả nước, đạt 1,4 tỷ USD, tăng 49,5%. 4.1. Thực hiện vốn đầu tư: Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố quý I/2025 ước tính đạt 93,4 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn Nhà nước 35,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,8% tổng vốn đầu tư và tăng 18,3%; vốn ngoài Nhà nước 51 nghìn tỷ đồng, chiếm 54,6% và tăng 5,8%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 7,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 7,6% và tăng 9,1%. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý I/2025 ước tính đạt 57,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 61,5% tổng vốn đầu tư và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2024; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 26,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 28% và tăng 8,1%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 4,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,1% và tăng 8,2%; bổ sung vốn lưu động đạt 4,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,4% và tăng 6,3%; vốn đầu tư khác đạt 928 tỷ đồng, chiếm 1% và tăng 3,9%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Ba ước tính đạt 5.238 tỷ đồng, tăng 14,7% so với thực hiện tháng trước và tăng 44,2% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 2.243 tỷ đồng, tăng 26,1% và tăng 55,4%; vốn NSNN cấp huyện 2.769 tỷ đồng, tăng 6,9% và tăng 37%; vốn NSNN cấp xã 226 tỷ đồng, tăng 12,9% và tăng 34,8%. Ước tính quý I/2025, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 14,3 nghìn tỷ đồng, đạt 13,7% kế hoạch năm và tăng 43,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 5,8 nghìn tỷ đồng, đạt 11,6% và tăng 44,6%; vốn NSNN cấp huyện 7,9 nghìn tỷ đồng, đạt 15,6% và tăng 43,6%; vốn NSNN cấp xã 592 tỷ đồng, đạt 15,1% và tăng 40,3%. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong tháng 3/2025 thành phố Hà Nội thu hút 312,7 triệu USD vốn FDI, trong đó: 29 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 9,1 triệu USD; có 9 lượt điều chỉnh tăng vốn dự án đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 126,2 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua phần cổ phần 27 lượt, đạt 177,4 triệu USD. Tính chung quý I năm 2025, Hà Nội thu hút 1.415 triệu USD vốn FDI, tăng 49,5% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Đăng ký cấp mới 81 dự án với số vốn đạt 29 triệu USD; 34 dự án bổ sung tăng vốn với 1.165 triệu USD; 83 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 221 triệu USD. 4.2. Hoạt động xây dựng Nhằm bảo đảm triển khai hiệu quả kế hoạch đầu tư công năm 2025 với mục tiêu giải ngân vượt kế hoạch vốn được giao, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Thủ đô, thành phố Hà Nội đã chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu và các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm, phát triển hạ tầng, góp phần đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Theo báo cáo tại Hội nghị giao ban công tác xây dựng cơ bản Quý I/2025 do UBND Thành phố tổ chức, kế hoạch đầu tư năm 2025 là 87,1 nghìn tỷ đồng (gấp 1,13 lần so với kế hoạch năm 2024 và bằng 10,5% tổng số vốn của cả nước), trong đó đầu tư từ nguồn thu sử dụng đất là 42,5 nghìn tỷ đồng (gấp 1,18 lần so với kế hoạch năm 2024); đối với các dự án trọng điểm, kế hoạch vốn năm nay là 18,2 nghìn tỷ đồng bố trí vốn cho 16 dự án trọng điểm, bằng 20,9% kế hoạch. Để khắc phục các tồn tại hạn chế của việc triển khai kế hoạch đầu tư công năm 2024 và bảo đảm việc triển khai kế hoạch đầu tư công năm 2025 đạt kết quả cao nhất, các cấp, ngành, chính quyền địa phương, chủ đầu tư phải xây dựng và nỗ lực, quyết tâm triển khai kế hoạch thúc đẩy tiến độ, giải ngân từng tháng đối với từng dự án ngay từ đầu năm. Năm 2025 thành phố Hà Nội có 282 dự án đầu tư công xây dựng cơ bản tập trung, trong đó: 233 dự án chuyển tiếp với tổng mức đầu tư 253,7 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn năm 2025 là 29,3 nghìn tỷ đồng); có 49 dự án mới được khởi công xây dựng trong năm với tổng mức đầu tư 6,7 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn trong năm là 2,2 nghìn tỷ đồng). Một số ngành, lĩnh vực có mức đầu tư vốn lớn như: Lĩnh vực giao thông có 85 dự án với 22,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 72,6% kế hoạch vốn năm; lĩnh vực bảo vệ môi trường 4 dự án với 1,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,8%; lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp 32 dự án với 1,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,5%; lĩnh vực y tế, dân số và gia đình 16 dự án với 1,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,2%. Đến nay các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn Thành phố đang khẩn trương thi công, sớm hoàn thành các hạng mục theo kế hoạch đặt ra. Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Thuộc nhóm dự án quan trọng quốc gia, tuyến đường đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có tổng chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 hơn 75 nghìn tỷ đồng, tổng khối lượng giải phóng mặt bằng 1.386 ha, trên tuyến xây dựng 3 cầu lớn vượt Sông Hồng, Sông Đuống và 8 nút giao khác. Sau hơn 1 năm khởi công, đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội đang dần hình thành, đã giải ngân 14,9% kế hoạch vốn. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ và Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 50,9% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 16,5% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc Lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình. Mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 24,6% kế hoạch vốn. Dự án hệ thống xử lý nước thải Yên Xá thành phố Hà Nội: Có mức đầu tư 16,3 nghìn tỷ đồng, trong đó, 84,1% vốn vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản. Dự án bao gồm một nhà máy xử lý nước thải với công suất 270 nghìn m³/ngày đêm và tuyến cống gom nước thải dọc sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, một phần sông Nhuệ với diện tích phục vụ khoảng 4.874 ha. Đến nay hệ thống dẫn nước thải từ sông Tô Lịch về nhà máy trên để xử lý đã cơ bản hoàn thành, trong 6 tháng đầu năm 2025 nhà máy xử lý nước thải Yên Xá đi vào vận hành thử nghiệm. Đến nay dự án đã giải ngân 36,4% kế hoạch vốn. Ngoài ra, một số dự án, công trình giao thông trọng điểm khác cũng được Thành phố dự kiến khởi công xây dựng trong năm như cầu Tứ Liên, cầu Ngọc Hồi, cầu Trần Hưng Đạo dự kiến khởi công vào tháng 5/2025; dự án thành phần 3 thuộc Vành đai 4 - Vùng Thủ đô khởi công trong quý II/2025. 5. Hoạt động doanh nghiệp 5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Ba, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 1.849 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 35,5% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 18,3 nghìn tỷ đồng, giảm 39,5%; 715 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 9,5%; 1.101 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, giảm 0,1%; 376 doanh nghiệp giải thể, tăng 8,6%. Tính chung quý I/2025, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 5,6 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 44,6 nghìn tỷ đồng, giảm 18,7% về số lượng doanh nghiệp và giảm 38,1% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 3,9 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 5%; 14,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 18,1%; 1,4 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 25,5%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý I/2025 cho thấy: Có 16,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn quý IV/2024; 49,1% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 34,3% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Những tháng tiếp theo, các doanh nghiệp nhận định tình hình sản xuất, kinh doanh sẽ khả quan hơn với 34,1% số doanh nghiệp nhận định xu hướng quý II/2025 sẽ tốt hơn so với quý I; 46% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 20% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Chia theo loại hình kinh tế, có 80% doanh nghiệp khu vực Nhà nước dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý II sẽ ổn định và tốt hơn so với quý I; tỉ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài lần lượt là 79,3% và 82,7%. 6. Hoạt động thương mại, dịch vụ 6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Trong quý I/2025, Thành phố thực hiện tốt công tác bình ổn thị trường, tăng cường kết nối cung cầu hàng hóa, bảo đảm an toàn thực phẩm, không xảy ra hiện tượng thiếu hàng, tăng giá trước và sau dịp Tết Nguyên đán. Cùng với kiểm soát tốt giá tiêu dùng, sự phục hồi mạnh mẽ của các nhóm ngành dịch vụ, du lịch đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Thành phố. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý I/2025 tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2024. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Ba ước tính đạt 74,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với tháng trước và tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 47,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2% và tăng 13,5%; khách sạn, nhà hàng đạt 10,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,8% và tăng 19,5%; du lịch lữ hành đạt 2,6 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 24%; dịch vụ khác đạt 14,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9% và tăng 11,9%. Ước tính quý I/2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 226,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 145,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 64,2% tổng mức và tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước (Đá quý, kim loại quý tăng 19,2%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 15,6%; phương tiện đi lại và phụ tùng tăng 14,3%; lương thực, thực phẩm tăng 13,6%; xăng dầu các loại tăng 13,5%; ô tô con dưới 9 chỗ ngồi tăng 13,2%; nhiên liệu khác tăng 11,3%; hàng hóa khác tăng 11,9%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 29,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,1% tổng mức và tăng 17,5% (dịch vụ lưu trú đạt 3,2 nghìn tỷ đồng, tăng 19,6%; dịch vụ ăn uống đạt 26,5 nghìn tỷ đồng, tăng 17,3%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 7,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,3% và tăng 22,7%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 43,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,4% và tăng 11,8% (dịch vụ hành chính và hỗ trợ tăng 12,4%; y tế tăng 9,7%; kinh doanh bất động sản tăng 8,8%; dịch vụ khác tăng 10,4; dịch vụ giáo dục và đào tạo giảm 1,9%). 6.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Quý I/2025 là thời điểm trùng với Tết Nguyên đán nên nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân tăng cao. Nhờ chất lượng phục vụ được quan tâm, cùng với ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ được đẩy mạnh, hoạt động vận tải đã đáp ứng tốt nhu cầu đi lại của người dân và lưu thông hàng hóa. Tổng doanh thu vận tải và bưu chính chuyển phát quý I/2025 ước tăng 20,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vận tải hành khách tăng 17,7%; vận tải hàng hóa tăng 13,6%. Vận tải hành khách: Trong tháng Ba, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 41,7 triệu lượt người, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển trong tháng ước tính đạt 1,2 tỷ lượt người.km, tăng 2,4% và tăng 19%; doanh thu ước tính đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,4% và tăng 18,8%. Ước tính quý I/2025, số lượt hành khách vận chuyển đạt 122,2 triệu lượt người, tăng 21,6% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 3,6 tỷ lượt người.km, tăng 18,6%; doanh thu ước đạt 6,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,7% (quý I/2024 vận chuyển tăng 13%; luân chuyển tăng 26,3% và doanh thu tăng 17,4%). Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Ba ước tính đạt 151,2 triệu tấn, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 14% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 14,7 tỷ tấn.km, tăng 2,4% và tăng 13,7%; doanh thu ước tính đạt 8,6 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% và tăng 14,1%. Ước tính quý I/2025, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 448 triệu tấn, tăng 14,3% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 43,4 tỷ tấn.km, tăng 12,9%; doanh thu ước đạt 25,4 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% (quý I/2024 vận chuyển tăng 15,3%; luân chuyển tăng 17% và doanh thu tăng 17,6%). Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải tháng Ba ước tính đạt 9,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 23,3% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý I/2025 ước tính đạt 27,4 nghìn tỷ đồng, tăng 27,4% so cùng kỳ năm trước (quý I/2024 doanh thu tăng 6,2%). Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Ba ước tính đạt 1,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% tháng trước và tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý I/2025 ước tính đạt 3,8 nghìn tỷ đồng, tăng 20,1% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2024 doanh thu tăng 11,6%). 6.3. Hoạt động du lịch Ngay từ những tháng đầu năm 2025, Thành phố chủ động đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch, các điểm đến, các sản phẩm du lịch mới của Thủ đô nhằm tạo sức lan tỏa lớn và thu hút khách đến Hà Nội với thông điệp xuyên suốt “Hà Nội - Đến để yêu” và “Hà Nội - Điểm đến du lịch an toàn, thân thiện, chất lượng, hấp dẫn”. Khách du lịch đến Hà Nội quý I/2025 tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2024. Thành phố đẩy mạnh đa dạng các hình thức truyền thông trên các nền tảng số, Website, mạng xã hội và các hình thức tuyên truyền quảng bá khác phù hợp trên không gian mạng nhằm tạo sức lan tỏa lớn và thu hút khách đến Hà Nội. Tiếp tục sản xuất nhiều clip mới về Thủ đô, thực hiện biên tập, dịch bài thuyết minh các điểm đến du lịch được chuẩn hóa sang 5 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc); thiết kế, sản xuất sản phẩm quà tặng, bộ nhận diện du lịch, ấn phẩm du lịch Hà Nội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa Thủ đô, phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch và phục vụ khách du lịch tại các khu, điểm tham quan du lịch. Điểm mới trong năm nay, Thành phố sẽ chú trọng phát triển du lịch đường sông, kết nối điểm đến dọc sông Hồng, sông Đuống, mở rộng tuyến từ bến Chương Dương Độ đến Sơn Tây, Ba Vì; tăng cường liên kết, quảng bá và xúc tiến các thị trường quốc tế trọng điểm như Đông Bắc Á, ASEAN, EU, cũng như các thị trường mới tiềm năng như Ấn Độ, Đông Âu... Quý I năm 2025, nền tảng du lịch trực tuyến lớn nhất thế giới đã công bố kết quả giải thưởng thường niên tôn vinh những điểm đến xuất sắc nhất dựa trên đánh giá từ hàng triệu du khách toàn cầu, Thành phố Hà Nội được ghi danh trong 3 hạng mục quan trọng: Vị trí thứ 2 trong 25 điểm đến văn hóa hàng đầu thế giới; vị trí thứ 7 trong 25 điểm đến hàng đầu thế giới và vị trí thứ 14 ở hạng mục đặc biệt trong 25 điểm đến được yêu thích nhất mọi thời đại nhân kỷ niệm 25 năm thành lập Tripadvisor. Trong tháng Ba khách du lịch đến Hà Nội ước đạt 690 nghìn lượt người, tăng 17,7% so với tháng trước và tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2025, khách du lịch đến Hà Nội đạt hơn 1.830 nghìn lượt người, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế đến Hà Nội tháng Ba ước đạt 515 nghìn lượt người, tăng 24,7% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2025, khách quốc tế đạt 1.321 nghìn lượt người, tăng 17,3% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2024 khách quốc tế đạt 1126 nghìn lượt người, tăng 59,7%). Trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 140,9 nghìn lượt người, tăng 5,4%; Trung Quốc 130,4 nghìn lượt người, tăng 10,7%; Mỹ 105 nghìn lượt người, tăng 20,1%; Anh 82,1 nghìn lượt người, tăng 18,8%; Pháp 75,3 nghìn lượt người, tăng 29,7%; Nhật Bản 74,8 nghìn lượt người, tăng 19,7%; Đức 58,1 nghìn lượt người, tăng 15,3%; Ma-lai-xi-a 35,1 nghìn lượt người, tăng 2,3%; Xin-ga-po 22,4 nghìn lượt người, giảm 4,6%; Thái Lan 18,7 nghìn lượt người, giảm 17,8%. Khách nội địa tháng Ba ước đạt 175 nghìn lượt người, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 30,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung quý I/2025, khách nội địa ước đạt 509 nghìn lượt người, tăng 22,5% so với cùng kỳ năm trước (quý I/2024 khách nội địa đạt 416 nghìn lượt người, tăng 22,8%). Tình hình hoạt động của cơ sở lưu trú và các dịch vụ du lịch khác: Tính đến cuối tháng 3/2025, trên địa bàn Thành phố có 3.761 cơ sở lưu trú du lịch với 71,3 nghìn phòng, trong đó 85 khách sạn, khu căn hộ được xếp hạng từ 1 đến 5 sao với gần 12 nghìn phòng. Trong tháng Ba, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn ước đạt 62,3%, giảm 2,1% so với cùng kỳ năm 2024; ước tính quý I/2025 công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn đạt 61,6%, giảm 0,5 điểm % so với cùng kỳ năm trước. Đến nay trên địa bàn Hà Nội có 97 cơ sở kinh doanh dịch vụ được công nhận đạt chuẩn phục vụ khách du lịch, trong đó có 45 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, 43 cơ sở kinh doanh dịch vụ mua sắm, 7 cơ sở kinh doanh vui chơi giải trí và 2 cơ sở kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã được công nhận đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Về hoạt động lữ hành và hướng dẫn viên: Tính đến tháng 3/2025 trên địa bàn Hà Nội có 2.045 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế; 524 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa; 32 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch, 7 văn phòng đại diện doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài; 6.528 hướng dẫn viên du lịch quốc tế; 2.412 hướng dẫn viên du lịch nội địa và 158 hướng dẫn viên du lịch tại điểm đang hoạt động. 6.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Hoạt động xuất, nhập khẩu của Thành phố những tháng đầu năm tiếp tục xu hướng phục hồi tích cực. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa quý I/2025 cao nhất trong nhiều năm gần đây, ước đạt 14,3 tỷ USD, tăng 7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 4,3 tỷ USD, tăng 2,6%; nhập khẩu đạt trên 10 tỷ USD, tăng 9,1%. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Ba ước tính đạt 1.489 triệu USD, tăng 2,1% so với tháng trước và giảm 2,7% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 836 triệu USD, tăng 2,1% và giảm 6,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 653 triệu USD, tăng 2,2% và tăng 2,9%. Tính chung quý I/2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 4.323 triệu USD, tăng 2,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 2.215 triệu USD, giảm 10,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2.108 triệu USD, tăng 21,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tăng so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị phụ tùng đạt 622 triệu USD, tăng 16,5%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 593 triệu USD, tăng 3,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 567 triệu USD, tăng 19,5%; hàng dệt may đạt 479 triệu USD, tăng 3,1%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 187 triệu USD, tăng 0,7%; hàng hóa khác đạt 1.169 triệu USD, tăng 14,4%. Một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng nông sản đạt 318 triệu USD, giảm 15,4%; xăng dầu đạt 144 triệu USD, giảm 63%; hàng gốm sứ đạt 46 triệu USD, giảm 5,4%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Ba ước tính đạt 3.461 triệu USD, tăng 2,5% so với tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 2.821 triệu USD, tăng 2,4% và tăng 3,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 640 triệu USD, giảm 1,3% và tăng 15,9%. Tính chung quý I/2025, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 10 tỷ USD, tăng 9,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,3 tỷ USD, tăng 7,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 1,7 tỷ USD, tăng 15,8%. Một số mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong quý I năm nay tăng so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị phụ tùng đạt 1.765 triệu USD, tăng 23,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 731 triệu USD, tăng 62,3%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 613 triệu USD, tăng 10,2%; sắt thép đạt 580 triệu USD, tăng 21%; kim loại khác đạt 473 triệu USD, tăng 70,3%; chất dẻo đạt 389 triệu USD, tăng 33,4%; hàng hóa khác đạt 3.369 triệu USD, tăng 3,5%. 7. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 3/2025 tăng nhẹ 0,08% so với tháng trước, tăng 0,98% so với tháng 12/2024 và tăng 2,69% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân quý I năm nay tăng 2,75% so với bình quân cùng kỳ năm 2024. Trong tháng Ba, 7/11 nhóm hàng CPI tăng so với tháng trước: Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,77%, tác động làm tăng CPI chung 0,16% (trong đó giá tiền thuê nhà tăng 2,25%; vật liệu bảo dưỡng nhà ở khác tăng 2,49%). Nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,62%, tác động làm tăng CPI chung 0,03% do sau Tết đang là mùa Lễ hội đầu năm mới. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,16%, tác động làm tăng CPI 0,01%. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,04%, tác động làm tăng CPI chung 0,01% (trong đó giá thực phẩm tăng 0,05%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,03%). Các nhóm còn lại tăng nhẹ, không tác động nhiều đến CPI chung: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%; nhóm giáo dục tăng 0,02%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,16%. Trong tháng có 4/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm giao thông giảm 1,3% (tác động làm giảm CPI chung 0,13%) do bình quân trong tháng giá xăng giảm 3,8%; giá dầu diezen giảm 4,67%); nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,09%; nhóm đồ uống, thuốc lá giảm 0,06%; nhóm thiết bị, đồ dùng gia đình giảm 0,03%.Bình quân quý I/2025, CPI tăng 2,75% so với bình quân quý I/2024, trong đó 8/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng, tác động nhiều nhất là nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 19,9% (tác động làm tăng CPI chung 1,01%) do ngày 10/12/2024 Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ra Nghị quyết 45/2024/NQ-HĐND Quy định giá cụ thể dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thuộc thành phố Hà Nội quản lý theo đó giá dịch vụ khám, chữa bệnh tại các bệnh viện trên địa bàn Thành phố sẽ điều chỉnh tăng áp dụng mức giá mới. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,5% (tác động làm tăng CPI chung 1,32%), trong đó giá nước sạch tăng 2,72%; giá điện tăng 5,2%; giá nhà thuê tăng 10,1%. Nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 3,88% (tác động làm tăng CPI chung 0,19%). Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,69% (tác động làm tăng CPI chung 0,83%), trong đó giá lương thực tăng 4,66%; ăn uống ngoài gia đình tăng 4,37%; giá thực phẩm tăng 1,79%). Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,25% (tác động làm tăng CPI chung 0,19%) chủ yếu do giá đồ trang sức tăng 39,13% và giá dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 29,98%. Các nhóm còn lại không tác động nhiều đến CPI chung: Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,84%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,71%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,72%. Có 3/11 nhóm hàng CPI bình quân quý I/2025 giảm so với bình quân cùng kỳ: Nhóm giáo dục giảm 7,68%; giao thông giảm 2,11%; bưu chính viễn thông giảm 0,86%. Chỉ số giá vàng tháng Ba tăng 5,11% so với tháng trước, tăng 13,03% so với tháng 12/2024 và tăng 40,79% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý I/2025, chỉ số giá vàng tăng 38,25% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Ba tăng 0,54% so với tháng trước, tăng 0,77% so với tháng 12/2024 và tăng 3,41% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý I/2025, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,66% so với bình quân cùng kỳ năm trước. 8. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán Ngay từ đầu năm 2025, Thành phố đã tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng thu ngân sách, đẩy mạnh công tác quyết toán các dự án hoàn thành; chỉ đạo điều hành chi ngân sách đúng quy định, đáp ứng nhiệm vụ chi thường xuyên theo dự toán năm. Tổng thu ngân sách trên địa bàn quý I/2025 tăng 69,3% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách địa phương tăng 16,4%. Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tiếp tục đẩy mạnh triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ khách hàng, doanh nghiệp. 8.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn quý I năm 2025 thực hiện 250,1 nghìn tỷ đồng, đạt 49,5% dự toán pháp lệnh năm và tăng 69,3% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Thu nội địa 241,5 nghìn tỷ đồng, đạt 51% và tăng 70,6%; thu từ dầu thô 0,8 nghìn tỷ đồng, đạt 18,6% và bằng 67%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 7,8 nghìn tỷ đồng, đạt 28,7% và tăng 55,0%. Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa quý I/2025: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 27,2 nghìn tỷ đồng, đạt 33,7% dự toán năm và giảm 4,3% cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 11,5 nghìn tỷ đồng, đạt 37,9% và tăng 21,6%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 48,6 nghìn tỷ đồng, đạt 47,3% và tăng 50,1%; thuế thu nhập cá nhân 18,7 nghìn tỷ đồng, đạt 37,4% và tăng 27,7%; thu tiền sử dụng đất 49,5 nghìn tỷ đồng, tăng 16,4% và gấp 12,4 lần cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 1,8 nghìn tỷ đồng, đạt 24,5% và tăng 10,6%; thu phí và lệ phí 5,7 nghìn tỷ đồng, đạt 24,2% và tăng 0,9%. Chi ngân sách địa phương quý I năm 2025 ước thực hiện 23,1 nghìn tỷ đồng, đạt 13,9% dự toán năm và tăng 16,4% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Chi đầu tư phát triển 7,9 nghìn tỷ đồng, đạt 9,1% và tăng 1,8%; chi thường xuyên 15,2 nghìn tỷ đồng, đạt 21,5% và tăng 25,9%. Một số lĩnh vực chi chủ yếu trong chi thường xuyên ngân sách địa phương trong quý I/2025: Chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề ước thực hiện 6.275 tỷ đồng, đạt 25,3% dự toán và tăng 58,7% so với cùng kỳ năm trước; chi các hoạt động kinh tế 999 tỷ đồng, đạt 7,6% và bằng 44,5%; chi quản lý hành chính Nhà nước 2.968 tỷ đồng, đạt 27,5% và tăng 42,7%; chi đảm bảo xã hội 1.105 tỷ đồng, đạt 16,5% và giảm 18,3%; chi y tế, dân số và gia đình 1.522 tỷ đồng, đạt 44,6% và gấp 3,5 lần; chi bảo vệ môi trường 799 tỷ đồng, đạt 24% và tăng 0,6%. 8.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Tháng Ba, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), chính sách lãi suất linh hoạt cho vay tín dụng. Thời điểm trong tháng 3/2025 lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước phổ biến ở mức 0,1 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 2 - 4,75%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 2,9 - 6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 4,6 - 6,3%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,7 - 9%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,9%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối quý I/2025, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 6.092 nghìn tỷ đồng, tăng 0,29% so với tháng trước và tăng 0,54% so với thời điểm kết thúc năm 2024, trong đó tiền gửi đạt 5.362 nghìn tỷ đồng, tăng 0,33% và tăng 0,29%; phát hành giấy tờ có giá đạt 730 nghìn tỷ đồng, tương đương tháng trước và tăng 2,41%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối quý I/2025, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.610 nghìn tỷ đồng, tăng 0,59% so với tháng trước và tăng 2,32% so với thời điểm kết thúc năm 2024, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 1.956 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% và tăng 1,68%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.654 nghìn tỷ đồng, tăng 0,65% và tăng 2,8%. Tính đến cuối quý I/2025, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,79% trong tổng dư nợ. Các TCTD thực hiện ngăn ngừa, kiểm soát nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đảm bảo mục tiêu cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn được đảm bảo. Các NHTM trên địa bàn dành vốn tín dụng cho vay đối với các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn tín dụng, đồng thời triển khai các biện pháp hỗ trợ khách hàng. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 12% trong tổng dư nợ; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 19,2%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,9%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,13%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,31%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,38%. 8.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết ngày 25/3/2025, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.198 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 312 doanh nghiệp và Upcom có 886 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 640,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,1% so với cuối tháng trước và tăng 8,1% so với cuối tháng cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 166,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% và tăng 5%; Upcom đạt 473,4 nghìn tỷ đồng, giảm 0,02% và tăng 9,3%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch ngày 25/3/2025 đạt 1.842 nghìn tỷ đồng, giảm 1,7% so với cuối tháng trước và tăng 19,9% so với cuối tháng cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 387 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% và tăng 18%; Upcom đạt 1.455 nghìn tỷ đồng, giảm 2,3% và tăng 20,4%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tính đến hết giao dịch ngày 25/3/2025, khối lượng trung bình 1 ngày/tháng đạt 65,5 triệu CP được chuyển nhượng, tăng 0,1% so với trung bình 1 ngày/tháng trước và giảm 42,2% so với trung bình 1 ngày/tháng cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 1,17 nghìn tỷ đồng, tăng 9,7% và giảm 50,1%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh trung bình 1 ngày/tháng đạt 59,6 triệu CP, giảm 0,7% và giảm 45,5%; giá trị đạt 1,06 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5% và giảm 53,1%. Tính đến hết ngày 25/3/2025, khối lượng giao dịch quý I/2025 đạt 3,2 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 54 nghìn tỷ đồng, giảm 39,4% khối lượng và giảm 48,8% giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Hai, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 177 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 19 mã giao dịch; cá nhân 158 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới đến hết tháng 2 đạt 230,7 nghìn tài khoản. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Giải quyết việc làm Ngay sau kỳ nghỉ Tết, Thành phố đã đẩy mạnh hỗ trợ, phát triển thị trường lao động, tạo điều kiện thuận lợi để người lao động tiếp cận được việc làm tốt, phù hợp với trình độ. Số lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia vào hoạt động kinh tế là 4,1 triệu người, tăng 1,59% so với cuối quý I/2024. Số lao động được giải quyết việc làm trong quý I/2025 là hơn 54,1 nghìn người, đạt 32% kế hoạch năm, tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến 31/3/2025, trên địa bàn thành phố Hà Nội lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 4.154 nghìn người, tăng 1,54% so với 31/3/2024. Số lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm hàng năm là 4.114 nghìn người, tăng 1,59% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lao động nam là 2.055 nghìn người, chiếm 49,9% tổng số lượng lao động và giảm 0,77%; lao động nữ 2.059 nghìn người, chiếm 50,1% và tăng 4,06%. Chia theo khu vực: Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm khu vực thành thị là 1.977 nghìn người, chiếm 48,1% và tăng 4,43%; khu vực nông thôn 2.137 nghìn người, chiếm 51,9% và giảm 0,90%. Trong quý I năm nay, tình hình lao động việc làm trên địa bàn Thành phố có nhiều chuyển biến tích cực, Hà Nội đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ, phát triển thị trường lao động theo hướng hiện đại, bền vững và hội nhập. Theo đó, tháng 3/2025, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 27,7 nghìn lao động, gấp 2 lần tháng trước và tăng 18,6% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung quý I/2025, toàn Thành phố giải quyết việc làm cho hơn 54,1 nghìn lao động, đạt 32% kế hoạch năm và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: (1) Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho đối tượng nghèo, đối tượng chính sách xã hội vay với tổng số tiền là 1.650 tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 20,1 nghìn lao động; (2) Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tổ chức thành công 46 phiên giao dịch việc làm với 1.665 đơn vị, doanh nghiệp tuyển dụng, kết quả 1,9 nghìn người nhận việc làm mới sau khi kết thúc phiên giao dịch; (3) có 927 người được giải quyết đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động tại thị trường Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc; (4) 31,1 nghìn người được tạo việc làm qua tư vấn, giới thiệu việc làm từ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm trên địa bàn Thành phố và qua các hình thức khác. Cũng trong tháng 3/2025, Thành phố ra quyết định trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp cho 3,6 nghìn người với số tiền hỗ trợ 224,4 tỷ đồng. Tính chung quý I/2025, Thành phố ra quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 11,2 nghìn người với số tiền hỗ trợ 438,4 tỷ đồng, giảm 20% số người và giảm 2,7% số tiền so với cùng kỳ năm trước; tư vấn giới thiệu việc làm cho 9.095 người; hỗ trợ học nghề cho 240 người với số tiền hơn 930,8 triệu đồng. 2. Bảo đảm an sinh xã hội Trong quý I/2025, công tác bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội tiếp tục được Thành phố và các cấp, các ngành quan tâm thực hiện; hoạt động hỗ trợ, tặng quà được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng. Trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, các cơ quan, địa phương, lực lượng chức năng đã triển khai thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thành phố, quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người dân; đảm bảo người dân đón Tết trong không khí vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm, nghĩa tình; mọi người, mọi nhà đều được vui xuân, đón Tết. Cũng trong dịp này, Thành phố đã thăm hỏi tặng 2.271 nghìn suất quà Tết cho các đối tượng chính sách ưu đãi, người có công, người nghèo, người cao tuổi, cán bộ nghỉ hưu, mất sức, người lao động có hoàn cảnh khó khăn; các tổ chức, gia đình, cá nhân tiêu biểu; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền 1.067 tỷ đồng, đạt 188% so với kế hoạch tặng quà của Thành phố, tăng 33,5 tỷ đồng, tương đương tăng 3,2% so với kết quả tặng quà Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024. Bên cạnh đó, UBND Thành phố cùng Liên đoàn Lao động Thành phố đã phối hợp chỉ đạo chính quyền, Công đoàn các cấp tổ chức Chương trình "Tết sum vầy - Xuân ơn Đảng", "Chợ Tết Công đoàn năm 2025", "Hành trình Tết Công đoàn - Xuân 2025"; tổ chức hỗ trợ, tặng quà, động viên, chúc Tết đoàn viên và người lao động; chăm lo cho đoàn viên, người lao động không về quê đón Tết với phương châm “Tất cả đoàn viên, người lao động đều có Tết”. Theo số liệu báo cáo, các cấp Công đoàn Thủ đô đã chi 355,2 tỷ đồng từ ngân sách công đoàn và các nguồn xã hội hóa hỗ trợ cho 787,8 nghìn lượt đoàn viên, người lao động có hoàn cảnh khó khăn nhân dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ, cụ thể: Hỗ trợ bằng tiền cho 436 nghìn lượt người với 247 tỷ đồng; hỗ trợ bằng quà hơn 300 lượt người với 89,6 tỷ đồng; hỗ trợ bằng vé xe cho 14 nghìn người với số tiền 4,9 tỷ đồng; các hình thức hỗ trợ khác cho 37,8 nghìn lượt người với 13,7 tỷ đồng. Tính chung quý I/2025, Thành phố tiếp nhận và giải quyết gần 1,7 nghìn hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân người có công. Hiện nay, Thành phố đang quản lý và thực hiện chế độ chính sách đối với gần 800 nghìn người hưởng ưu đãi người có công với cách mạng, trong đó người hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng là trên 80 nghìn người với tổng kinh phí hơn 200 tỷ đồng/tháng. Các Trung tâm đang nuôi dưỡng 43 người có công và thân nhân, 127 con của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; các Mẹ Việt Nam anh hùng được các cơ quan đơn vị nhận phụng dưỡng; 100% xã, phường, thị trấn làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa. Các hoạt động thăm, tặng quà người có công với cách mạng và thắp nến tri ân, sửa sang các phần mộ liệt sĩ, nâng cấp, tu bổ các công trình ghi công liệt sĩ trên địa bàn Thành phố được quan tâm thực hiện thường xuyên. 3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội Năm 2025, theo kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 95,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 47,5% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 3,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 45% lực lượng lao động. Ước tính đến hết quý I/2025, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 95,27% dân số với 8.126 nghìn người tham gia, tăng 0,25% so với cuối tháng trước và tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.192 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 46,4%), tăng 0,18% và tăng 5,87%; gần 107,7 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,94%), tăng 1,7% và tăng 27,85%. Số người tham gia BHTN là 2.123 nghìn người (chiếm 44,94%), tăng 0,14% và tăng 5,99%. Tính đến cuối tháng 3/2025, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 17,1 nghìn tỷ đồng, tăng 16,99% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 20,5 nghìn tỷ đồng, tăng 12,65% so với cùng kỳ năm 2024 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng là 12,2 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 6,4 nghìn tỷ đồng). 4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghềNhững ngày đầu năm mới, chất lượng giáo dục, đào tạo Hà Nội tiếp tục được giữ vững; giáo viên, học sinh trở lại trường sau kỳ nghỉ Tết được thực hiện chu đáo, ổn định nền nếp dạy và học theo đúng chương trình năm học. Thành phố Hà Nội vinh dự là năm thứ 13 liên tiếp dẫn đầu cả nước trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia cấp Trung học phổ thông. Năm học 2024 - 2025, toàn Thành phố có 2.913 Trường mầm non, phổ thông các cấp; 29 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 1 Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục Hà Nội với hơn 2,2 triệu học sinh; 130 nghìn giáo viên và 70,2 nghìn lớp. Trong đó: Khối trường công lập có 2.310 trường (tăng 26 trường so với năm học trước) với 1,9 triệu học sinh (tăng 38 nghìn học sinh), 51 nghìn lớp và 92 nghìn giáo viên; Khối trường Tư thục có 604 trường (tăng 13 trường) với 333 nghìn học sinh (tăng 10 nghìn học sinh), gần 19,2 nghìn lớp và 38 nghìn giáo viên. Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được Thành phố quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện. Đến cuối năm 2024, trên địa bàn Thành phố có 61,4% tổng số trường đạt chuẩn quốc gia (công lập 75,8%). Trong đó tỉ lệ đạt chuẩn quốc gia của các cấp học: Mầm non là 55,2% (công lập 77,7%); Tiểu học 70,1% (công lập 74,5%); Trung học cơ sở 74,8% (công lập 80,2%); Trung học phổ thông 28,9% (công lập 51,6%). Chất lượng giáo dục, đào tạo Hà Nội tiếp tục được giữ vững, cùng với sự nỗ lực, sáng tạo, chủ động trong dạy và học, ngành Giáo dục Thủ đô đã đổi mới nâng cao chất lượng dạy và học; phát huy hiệu quả các phong trào thi giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi các cấp. Trong kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia trung học phổ thông (THPT) năm học 2024-2025 do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức vào ngày 25 và 26/12/2024 có 6.482 thí sinh dự thi, thành phố Hà Nội lần thứ 13 liên tiếp dẫn đầu cả nước với 200 học sinh đoạt giải, trong đó có 18 giải Nhất, 60 giải Nhì, 65 giải Ba và 57 giải Khuyến khích. Kết quả năm nay cao hơn năm học trước (năm 2023 - 2024 học sinh Hà Nội đoạt 184 giải với 14 giải Nhất, 61 giải Nhì, 54 giải Ba và 55 giải Khuyến khích). Tháng 02/2025, Thành phố công bố kết quả xếp giải Kỳ thi chọn học sinh giỏi Thành phố các môn văn hóa lớp 12 cấp THPT năm học 2024-2025, tuyên dương các tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc, công nhận 2.535/4.400 học sinh đoạt giải với 123 giải Nhất, 543 giải Nhì, 718 giải Ba, 1.151 giải Khuyến khích. Về giáo dục nghề nghiệp, hiện nay trên địa bàn Thành phố có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở hoạt động giáo dục nghề. Trong đó, 67 trường cao đẳng, 58 trường trung cấp, 75 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên và 113 doanh nghiệp, các loại hình khác. Trong quý I/2025, các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh được 27 nghìn người (trong đó 1.226 người trình độ cao đẳng; 1.041 người trình độ trung cấp; 24,7 nghìn người trình độ sơ cấp, dưới 3 tháng), đạt 11,3% kế hoạch tuyển sinh năm 2025, góp phần cung cấp nguồn lao động có trình độ đào tạo cho thị trường lao động. 5. Tình hình dịch bệnh Những tháng đầu năm 2025, dịch bệnh Sởi diễn biến phức tạp trong nước với số ca mắc tăng cao. Thành phố đã chủ động triển khai các giải pháp phòng chống dịch bệnh tại mỗi địa phương, các trường học và những nơi tập trung đông người, đẩy nhanh tiêm vắc xin phòng Sởi trên địa bàn, nhờ đó tình hình dịch bệnh được kiểm soát. Theo Báo cáo Trung tâm Kiểm soát bệnh tật thành phố (CDC) Hà Nội, tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố trong tháng 3/2025 cơ bản được kiểm soát, một số dịch bệnh theo mùa có xu hướng tăng so với cùng kỳ, trong tuần qua (từ ngày 21/3 đến ngày 28/3), toàn thành phố ghi nhận 189 trường hợp mắc sởi tại 28 quận, huyện. Một số đơn vị ghi nhận nhiều bệnh nhân như: Nam Từ Liêm 25 người; Hoàng Mai 19 người; Bắc Từ Liêm, Long Biên 14 người; Thanh Trì 13 người; Hà Đông, Đống Đa, Thường Tín 9 người. Cộng dồn từ đầu năm đến 28/3/2025, Thành phố ghi nhận 1.247 trường hợp mắc sởi tại 30/30 quận, huyện, thị xã, 1 tử vong, tăng so với cùng kỳ năm 2024 (0 ca mắc, 0 tử vong). Bệnh nhân phân bố theo nhóm tuổi: Dưới 6 tháng ghi nhận 11%; từ 6 - 8 tháng ghi nhận 14%; từ 9 - 11 tháng ghi nhận 11%; từ 1 - 5 tuổi ghi nhận 23%; từ 6 - 10 tuổi ghi nhận 15%; trên 10 tuổi ghi nhận 25%. Theo CDC Hà Nội nhận định, số ca mắc sởi trong tuần tiếp tục tăng so với tuần trước, chủ yếu ở người chưa được tiêm chủng hoặc chưa tiêm chủng đầy đủ. Trong tuần ghi nhận 186 trường hợp Tay chân miệng tại 28 quận, huyện, thị xã; 120 xã, phường, thị trấn, 0 tử vong, tăng 80 trường hợp so với tuần trước (106 trường hợp, 0 tử vong). Một số đơn vị ghi nhận nhiều bệnh nhân như: Hà Đông 26 người; Nam Từ Liêm, Bắc Từ Liêm 20 người; Thanh Trì 18 người; Chương Mỹ 13 người; Hoài Đức 10 người. Cộng dồn từ đầu năm đến 28/3/2025 ghi nhận 582 trường hợp, 0 tử vong; tăng 94% so với cùng kỳ năm 2024 (300 ca mắc, 0 tử vong), bệnh nhân phân bố tại 30 quận, huyện, thị xã. Số ca mắc Tay chân miệng đang có xu hướng tăng theo chu kỳ dịch hàng năm, ghi nhận một số ổ dịch ở trường mầm non và cộng đồng, dự báo số mắc sẽ tiếp tục tăng. Ngoài ra, trong tuần ghi nhận 6 trường hợp mắc Sốt xuất huyết, 0 tử vong; giảm 1 trường hợp so với tuần trước; cộng dồn từ đầu năm 2025 ghi nhận 199 trường hợp mắc, 0 tử vong; giảm 63,4% so với cùng kỳ năm 2024 (543 ca mắc, 0 tử vong), bệnh nhân ghi nhận rải rác tại 27 quận, huyện, thị xã. Trong tuần ghi nhận 1 trường hợp uốn ván, cộng dồn từ đầu năm ghi nhận 5 trường hợp, tương đương so với cùng kỳ năm 2024 (5 ca mắc, 0 tử vong). Một số dịch bệnh khác từ đầu năm đến nay trên địa bàn Thành phố ghi nhận 4.226 trường hợp mắc cúm A (H1N1) và cúm B, tăng 96% so với cùng kỳ; bệnh ho gà ghi nhận 12 trường hợp, giảm 65%; liên cầu lợn ghi nhận 1 trường hợp, tương đương cùng kỳ; Thủy đậu ghi nhận 288 trường hợp, giảm 8%. Trong tuần tới, các quận, huyện, thị xã tiếp tục rà soát và đẩy nhanh tiến độ tiêm chủng vắc xin sởi cho trẻ em trong độ tuổi tiêm chủng thường xuyên và trẻ em thuộc đối tượng tiêm chủng chiến dịch, tập trung đối tượng trẻ 6 đến dưới 9 tháng và trẻ từ 1-10 tuổi chưa tiêm đủ 2 mũi vắc xin phòng bệnh sởi, thực hiện tổ chức tiêm chủng liên tục tất cả các ngày trong tuần, đạt tiến độ từ 95% trở lên trước 31/3/2025. Tăng cường giám sát phát hiện bệnh Tay chân miệng tại cộng đồng và trường mầm non, mẫu giáo có ca bệnh, ổ dịch; tổ chức các hoạt động xử lý triệt để, tổng vệ sinh môi trường, khử khuẩn phòng chống bệnh tay chân miệng theo quy định. 6. Hoạt động văn hóa, thể thao Quý I/2025 trùng với Tết Nguyên đán Ất Tỵ, hoạt động vui chơi, giải trí, văn hóa nghệ thuật diễn ra sôi động. Hoạt động thể thao thành tích cao tiếp tục được quan tâm hướng tới các giải đấu chuyên nghiệp; phong trào thể thao quần chúng được tổ chức rộng khắp các địa phương. Hoạt động văn hóa: Trong quý I/2025, Thành phố đã thực hiện hoạt động văn hóa, văn nghệ Chào đón năm mới Ất Tỵ và chào mừng 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930-03/02/2025); Kỷ niệm 1985 năm khởi nghĩa Hai Bà Trưng và 115 năm Ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3; Kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh 26/3/1931-26/3/2025). Thành phố thực hiện công tác thông tin tuyên truyền, cổ động trực quan, triển lãm ảnh trong các dịp Lễ lớn với 3,8 nghìn m2 pano; 5,4 nghìn băng rôn dọc; 10 cụm mô hình; 8,4 nghìn cờ Quốc kỳ, Đảng kỳ; 16 cụm cờ tại các vòng xoay, đảo giao thông; duy trì trang trí chiếu sáng mỹ thuật tại các trục đường, tuyến phố chính, khu vực trung tâm Thủ đô và các vị trí cửa ngõ ra vào Thành phố. Tuyên truyền các hoạt động Tết kết hợp tuyên truyền, quảng bá các hình ảnh tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội và các sự kiện chính trị của đất nước với số lượt truy cập đạt trung bình hơn 2 nghìn lượt/ngày. Đặc biệt đêm 30 Tết diễn ra Chương trình nghệ thuật “Rực rỡ Thăng Long” với chủ đề “Những mùa Xuân rực rỡ” là sự kiện văn hóa nghệ thuật tiêu điểm trong thời khắc đón chào năm mới Ất Tỵ, thu hút đông đảo Nhân dân, du khách trong nước, quốc tế và truyền thông, tạo thêm vị thế, sự hấp dẫn du khách đến với Thủ đô Hà Nội. Tổ chức 05 triển lãm ảnh: Triển lãm “Hà Nội tầm vóc mới, vị thế mới chào 2025” nhân dịp Chào năm mới (Tết dương lịch) 2025; triển lãm “Mừng đất nước đổi mới, Mừng Đảng quang vinh, Mừng xuân Ất Tỵ 2025”; triển lãm ảnh nội dung tuyên truyền kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô tại buổi gặp mặt đoàn kiều bào tiêu biểu thuộc Chương trình “Xuân Quê hương 2025”; triển lãm ảnh “95 năm ánh sáng soi đường”; triển lãm ảnh “Kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng bộ Thành phố Hà Nội”. Tại các di tích lịch sử trên địa bàn Thành phố đã tổ chức tiếp đón các cơ quan, đoàn thể và Nhân dân đến dâng hương, tham quan du lịch tất cả các ngày trong dịp Tết. Trong tháng Ba, các di tích đã đón 166,5 nghìn lượt khách, doanh thu phí ước đạt hơn 9,3 tỷ đồng; tính chung quý I/2025, đón hơn 1 triệu lượt khách tham quan, tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước, doanh thu phí tham quan 53,8 tỷ đồng, đạt 37,1% kế hoạch thu năm. Các đơn vị nghệ thuật trong quý I tiếp tục biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đối ngoại và phục vụ đông đảo các tầng lớp Nhân dân với 657 buổi diễn (trong đó 38 buổi phục vụ chính trị và 619 buổi diễn doanh thu) với số tiền 17,6 tỷ đồng, tăng 40% so với cùng kỳ năm 2024; thu hút 156,1 nghìn lượt khán giả, tăng 29,1%. Bên cạnh đó, Bảo tàng Hà Nội trong tháng Ba tiếp tục duy trì mở cửa đón khách tham quan, bố trí cán bộ thuyết minh hướng dẫn, ước tính trong tháng 3 đón 4.780 lượt khách tham quan; tính chung quý I/2025, Bảo tàng Hà Nội đón 14,9 nghìn lượt khách, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước, doanh thu phí ước đạt 195,5 triệu đồng. Thư viện Hà Nội phục vụ bạn đọc tại chỗ, cho mượn về nhà và qua không gian mạng với số lượng trên 500 nghìn lượt người, tăng 51,8% so với cùng kỳ năm 2024; phục vụ hơn 1,2 triệu lượt tài liệu, tăng 50,2%; số lượng người cấp mới và đổi thẻ thư viện gần 2 nghìn người, tăng 52,5%. Hoạt động thể thao: Trong tháng Ba, Thành phố tiếp tục cử các đoàn huấn luyện viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế, đồng thời phối hợp tổ chức các giải thi đấu chuyên nghiệp theo kế hoạch. Tính chung 3 tháng đầu năm 2025, Hà Nội đã cử 10 đoàn đi tập huấn với 256 lượt người, trong đó tập huấn trong nước có 41 Huấn luyện viên (HLV), 212 vận động viên (VĐV); tập huấn quốc tế có 3 HLV. Bên cạnh đó, Thành phố cử 26 đoàn tham dự thi đấu các giải với 713 lượt người, trong đó thi đấu trong nước có 24 đoàn gồm 07 cán bộ, 111 HLV, 586 VĐV; tham gia giải quốc tế có 2 đoàn gồm 3 HLV và 6 VĐV. Thể thao thành tích cao Hà Nội 3 tháng đầu năm 2025 đạt được 130 huy chương tại các giải đấu trong nước, gồm 43 huy chương Vàng, 31 huy chương Bạc, 56 huy chương Đồng. Về thể thao quần chúng trong 3 tháng đầu năm 2025 tại tất cả các quận, huyện, thị xã đã triển khai tổ chức nhiều giải đấu, hội thi thể dục thể thao tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích, góp phần nâng cao sức khỏe cho nhân dân tại địa phương và các vùng lân cận. Các hoạt động thể dục thể thao đa dạng, phong phú, phù hợp với mọi lứa tuổi, từ những môn thể thao cổ truyền của dân tộc như: Các trò chơi dân gian, Vật cổ truyền, Bắn nỏ, Cờ người, Đẩy gậy, Kéo co, Nhảy bao... đến những môn thể thao được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tập luyện như: Bóng đá, Bóng chuyền, Cầu lông, Võ, Quần vợt, Bóng bàn... 7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Trong tháng, lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đối với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông; phụ huynh học sinh, người giám hộ, người giao phương tiện cho học sinh khi chưa đủ điều kiện điều khiển; các chủ phương tiện và phụ huynh chở học sinh vi phạm các quy định về vận tải đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt. Thành phố tiếp tục bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cho nhân dân. Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm, các địa điểm Lễ hội đầu Xuân, vui chơi giải trí, những nơi tập trung đông người. Với việc triển khai đồng bộ, toàn diện các biện pháp, giải pháp, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Ba (từ 15/02/2025 đến 14/3/2025) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng phát hiện hơn 379 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 223 vụ do công an khám phá. Số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 331 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 22 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 60 đối tượng, thu nộp ngân sách gần 4 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 3 vụ cờ bạc, bắt giữ 11 đối tượng; phát hiện 34 vụ tội phạm và vi phạm pháp luật về ma tuý, bắt giữ 82 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 32 vụ với 68 đối tượng. Tai nạn giao thông: Tháng Ba, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 104 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 59 người chết và 63 người bị thương. Chia theo mức độ nghiêm trọng, có 1 vụ đặc biệt nghiêm trọng làm 3 người chết, có 1 vụ tai nạn rất nghiêm trọng làm chết 2 người và 1 người bị thương; có 62 vụ nghiêm trọng làm chết 54 người và 17 người bị thương; 40 vụ ít nghiêm trọng và va chạm làm 45 người bị thương. Riêng trong 9 ngày nghỉ Tết Nguyên đán (từ ngày 25/01/2025 đến ngày 02/02/2025), trên địa bàn Thành phố xảy ra 16 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 10 người chết, 12 người bị thương (giảm 22 vụ, giảm 06 người chết, 32 người bị thương so với Tết Nguyên đán năm 2024). Cộng dồn 3 tháng đầu năm 2025, Thành phố ghi nhận 306 vụ tai nạn giao thông, trong đó 300 vụ tai nạn đường bộ và 6 vụ tai nạn đường sắt, làm 177 người chết và 199 người bị thương (3 tháng đầu năm 2024, ghi nhận 387 vụ tai nạn giao thông, làm 176 người chết và 314 người bị thương). Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng phát hiện 34 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 34 đối tượng, xử lý 38 vụ với 42 đối tượng, thu nộp ngân sách 1,2 tỷ đồng. Cũng trong tháng Ba, trên địa bàn Thành phố xảy ra 90 vụ cháy nổ làm 1 người bị thương, hiện các cơ quan chức năng đang tiếp tục xác minh nguyên nhân cháy và đánh giá thiệt hại về tài sản do các vụ cháy gây ra. Cộng dồn 3 tháng đầu năm 2025, trên địa bàn Thành phố phát hiện 2.218 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường, đã xử lý 2.158 vụ, thu nộp ngân sách 9,8 tỷ đồng. Xảy ra 347 vụ cháy, nổ làm 3 người chết và 4 người bị thương, thiệt hại về tài sản ước tính giá trị ban đầu trên 12,2 tỷ đồng (3 tháng đầu năm 2024, xảy ra 299 vụ cháy, nổ làm 6 người chết và 3 người bị thương). Khái quát lại, trong bối cảnh kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường với nhiều yếu tố rủi ro, bất định, nhưng với sự chủ động, quyết liệt của Trung ương và Thành phố, kinh tế - xã hội Thủ đô đã đạt được các kết quả quan trọng trong quý I năm 2025: Kinh tế tiếp tục tăng trưởng rõ nét, GRDP quý I năm nay tăng 7,35% so với cùng kỳ năm trước; thu NSNN trên địa bàn đạt 49,5% dự toán năm, tăng 69,3% so với cùng kỳ; vốn đầu tư thực hiện do địa phương quản lý cao nhất cả nước đạt 14,3 nghìn tỷ, tăng 43,8%; thu hút đầu tư nước ngoài đạt 1,4 tỷ USD, tăng 49,5%; khách du lịch đến Hà Nội do cơ sở lưu trú phục vụ tăng 18,5%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng 13,3%; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân quý I thấp hơn so với bình quân cùng kỳ 2,37 điểm %; hoạt động xuất nhập khẩu phục hồi tích cực; các lĩnh vực văn hóa, thể thao tiếp tục phát triển; giáo dục được quan tâm chú trọng; y tế, an sinh xã hội, giải quyết việc làm được bảo đảm. Năm 2025 có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả nước và Thủ đô Hà Nội. Để hoàn thành kế hoạch mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, 9 tháng cuối năm các cấp, các ngành, địa phương cần nghiêm túc thực hiện các Văn bản, chỉ đạo của Trung ương và Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2025; Thành phố đã giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển cả năm đến từng ngành, từng lĩnh vực, xác định các nhiệm vụ, giải pháp để hoàn thành chỉ tiêu, chú trọng các dự án trọng điểm, xác định đầu tư công là đòn bẩy, kinh tế tư nhân là điểm tựa thúc đẩy phát triển kinh tế. Quan tâm, chỉ đạo, triển khai đồng bộ các giải pháp bảo tồn giá trị văn hóa để phát triển du lịch bền vững, đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn, đồng thời thực hiện tốt một số nội dung sau: Một là, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực; Bảo đảm tiến độ xây dựng các cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để cụ thể hóa Luật Thủ đô (sửa đổi); xây dụng kế hoạch thực hiện Quy hoạch Thủ đô Hà Nội; thực hiện phân cấp, ủy quyền triệt để trong từng ngành, lĩnh vực, tiếp tục đơn giản hóa thu tục hành chính, rút ngắn thời gian và giảm chi phí cho doanh nghiệp; tháo gỡ khó khăn, điểm nghẽn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh và triển khai các dự án đầu tư cả trong và ngoài ngân sách. Hai là, Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân tối đa nguồn vốn đầu tư công, huy động tốt nguồn vốn tư nhân cho đầu tư phát triển; hoàn thành nhanh, gọn từng dự án đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình; xử lý hồ sơ, thủ tục thanh, quyết toán theo quy định; khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư để khởi công các dự án mới. Đôn đốc quyết liệt tiến độ các công trình trọng điểm, các công trình thiết yếu, dự án nhà ở xã hội; tập trung tháo gỡ khó khăn tối đa cho các dự án ODA, dự án vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư ngoài ngân sách nhằm đẩy mạnh kích cầu đầu tư. Ba là, kiểm soát tốt giá tiêu dùng dưới 4,5%; tiếp tục tìm kiếm, tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chủ động áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh. Các doanh nghiệp tăng cường gắn kết lưu thông với sản xuất, đẩy mạnh liên kết chuỗi nhằm kết nối cung cầu, mở rộng việc tiêu thụ trên các sàn thương mại điện tử; đảm bảo phân phối sản phẩm hàng hóa gắn với quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm; thúc đẩy mạnh mẽ mô hình chuỗi liên kết phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp và xuất khẩu; tập trung khai thác và phát triển thị trường nội địa, nâng cao sức tiêu dùng trong nước và phát triển thương hiệu Việt. Bốn là, theo dõi sát diễn biến thị trường và hàng rào thuế quan của các quốc gia, nhất là chính sách thương mại của Mỹ trong bối cảnh hiện nay; xây dựng các kịch bản thích ứng kịp thời các tình huống, tận dụng các yếu tố thuận lợi để tăng kim ngạch xuất khẩu. Tích cực hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, về đăng ký, bảo hộ và phát triển thương hiệu, về áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư và hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Năm là, nâng cao hiệu quả các cụm công nghiệp; hoàn thiện, hiện đại hóa, hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp trên địa bàn Thành phố. Thúc đẩy sản xuất công nghiệp, thu hút dự án đầu tư công nghiệp lớn có vai trò quan trọng nhằm gia tăng năng lực sản xuất, tìm kiếm thị trường xuất nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng, linh kiện phục vụ cho sản xuất, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng nền tảng địa chỉ số trong hoạt động du lịch; tiếp tục số hóa hệ thống thông tin số về khu, điểm du lịch Hà Nội; tiếp tục thực hiện số hóa bằng giao diện ảnh 360 độ và các công nghệ mới tại các điểm đến làng nghề, di tích, di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố; xây dựng hệ thống phần mềm tiện ích, thông minh hỗ trợ khách du lịch tra cứu thông tin du lịch Hà Nội. Thực hiện cơ cấu lại sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt theo mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Tiếp tục phát triển chăn nuôi theo vùng xã trọng điểm phù hợp với từng vùng và định hướng phát triển của Thành phố. Phát triển sản phẩm OCOP, ưu tiên các sản phẩm đặc sản các vùng miền, làng nghề có thương hiệu, sản phẩm có sự tham gia đông đảo của cộng đồng./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 02 năm 2025
- 03/03/2025 15:22
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 1.1. Nông nghiệp Đến nay, Thành phố đã thu hoạch xong cây màu vụ Đông với diện tích 5 nghìn ha ngô, năng suất ước đạt 52,6 tạ/ha; 886 ha khoai lang, năng suất đạt 94 tạ/ha; 750 ha đậu tương, năng suất đạt 18,5 tạ/ha; 188 ha lạc, năng suất 22,2 tạ/ha; 14,6 nghìn ha rau, năng suất 228 tạ/ha; 77 ha đậu các loại, năng suất 17,9 tạ/ha. Trong tháng Hai, các địa phương tập trung gieo trồng lúa và cây màu vụ Xuân. Công tác lấy nước đợt hai, đợt cuối điều tiết nước hồ thủy điện phục vụ sản xuất vụ Xuân 2025 được thực hiện khẩn trương nhằm đảm bảo trong khung thời vụ tốt nhất. Tính đến 20/02/2025, Thành phố đã gieo trồng vụ Đông Xuân được 55,6 nghìn ha lúa, đạt 69,7% kế hoạch gieo cấy, gấp 2,6 lần tiến độ gieo trồng vụ Đông Xuân năm trước; 6,8 nghìn ha ngô, bằng 105,5%; 956 ha khoai lang, bằng 105,6%; 791 ha đậu tương, bằng 108,5%; 710 ha lạc, bằng 196,1%; 21,1 nghìn ha rau các loại, bằng 105,3%; 120 ha đậu các loại, bằng 100,8%. Tiến độ gieo trồng vụ Xuân năm 2025 sớm do Tết Nguyên đán Ất Tỵ đến sớm hơn so với Tết Nguyên đán năm trước. Ngay sau Tết, Thành phố có kế hoạch, hướng dẫn, tuyên truyền các địa phương tranh thủ thời tiết ấm áp, nguồn nước thuận lợi, khẩn trương gieo cấy nhằm bảo đảm kế hoạch, phấn đấu hoàn thành gieo cấy lúa Xuân trước ngày 28/2/2025. Ngoài ra, các địa phương cũng chủ động gieo mạ dự phòng với tỷ lệ 5 - 10% giống lúa ngắn ngày để ứng phó kịp thời trong trường hợp điều kiện thời tiết không thuận. Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Sản lượng thịt gia súc, gia cầm dồi dào, đảm bảo đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Thủ đô trước, trong và sau Tết Nguyên đán, không xảy ra tình trạng khan hiếm thực phẩm. Đàn trâu hiện có 28,8 nghìn con, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 112 nghìn con, giảm 2,6%; đàn lợn 1,2 triệu con, giảm 0,8%; đàn gia cầm 31,5 triệu con, tăng 1,6% (đàn gà 22,4 triệu con, tăng 1,8%). 1.2. Lâm nghiệp và thủy sản Hưởng ứng phong trào “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ”, ngày 5/2, các quận, huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội đã đồng loạt tổ chức lễ phát động và triển khai trồng hàng chục nghìn cây xanh nhân dịp Xuân Ất Tỵ, với mục tiêu năm 2025 trồng mới cây bóng mát, cây lấy gỗ trên các tuyến đường giao thông đô thị và cây ăn quả; trồng mới, trồng bổ sung chăm sóc quản lý, bảo vệ rừng phòng hộ, đặc dụng. Đây là hoạt động có ý nghĩa thiết thực, góp phần bảo vệ môi trường, nâng cao chất lượng cuộc sống và hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Trong tháng Hai, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1,7 nghìn m3, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán ước 69 nghìn cây, giảm 1,4%. Tính chung 2 tháng đầu năm, sản lượng gỗ đạt 3,4 nghìn m3, giảm 0,9%; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 69 nghìn cây, giảm 1,4%. Sản xuất thủy sản trong tháng trên địa bàn phát triển ổn định, các cơ sở nuôi trồng thủy sản đang tích cực chuẩn bị cho đợt thả giống nuôi mới đối với những diện tích đã thu hoạch cuối năm 2024. Sản lượng thủy sản tháng 02/2025 ước đạt 9,2 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng cá nuôi trồng), tăng 3,4% so với cùng kỳ năm 2024; tính chung 2 tháng đầu năm, sản lượng thủy sản đạt 18,4 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước. 2. Sản xuất công nghiệp Với mục tiêu đẩy mạnh sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong năm 2025, ngay từ ngày làm việc đầu tiên sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán (ngày 3/2, tức mùng 6 tháng Giêng), trên địa bàn Thành phố đã có 91,7% doanh nghiệp mở xưởng sản xuất (các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội tỉ lệ đạt 97,5%), tỷ lệ công nhân quay lại làm việc cũng đạt mức cao, với 95,2% lao động trở lại (các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội là 96%). Đến ngày 7/2 (mùng 10 tháng Giêng), tỉ lệ doanh nghiệp hoạt động trở lại là 99,5%, trong đó các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội đạt 100%; công nhân quay lại làm việc cũng tăng lên 99,5%, đảm bảo nguồn nhân lực cho hoạt động sản xuất sau kỳ nghỉ Tết và kế hoạch sản xuất đầu năm 2025. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Hai ước tính tăng 3,8% so với tháng trước và tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5% và tăng 22,2%; sản xuất và phân phối điện giảm 1,5% và tăng 4,9%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,8% và tăng 3,7%; công nghiệp khai khoáng tăng 0,9% và tăng 18,4%. Tính chung 2 tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,0%; sản xuất và phân phối điện tăng 5,2%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 2,7%; công nghiệp khai khoáng giảm 3,7%. Trong 2 tháng đầu năm, một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất máy móc, thiết bị khác tăng 53,9%; dệt tăng 25,0%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 21,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc thiết bị tăng 19,9%; sản xuất xe có động cơ tăng 19,7%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 12,6%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 8,4%; sản xuất thiết bị điện giảm 7,2%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 5,6%; in, sao chụp bản ghi giảm 5,2%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 2,9%. Cùng với xu hướng chung của toàn ngành công nghiệp, tính chung 2 tháng đầu năm nay, hầu hết các sản phẩm công nghiệp chủ lực (chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo) có chỉ số sản xuất tăng cao so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Tủ lạnh, loại sử dụng trong gia đình tăng 55,2%; sản phẩm vệ sinh gắn cố định bằng gốm sứ tăng 46,0%; thuốc kháng sinh dạng bột/cốm tăng 43,6%; sữa và kem dạng bột tăng 41,8%; quạt công suất dưới 125W tăng 35,0%; bộ phận tua bin phản lực, tua bin cánh quạt tăng 34,7%; bê tông trộn sẵn (bê tông tươi) tăng 28,1%; phụ tùng khác của xe có động cơ tăng 26,1%. Bên cạnh đó, một số sản phẩm công nghiệp có chỉ số giảm như: Dược phẩm giảm 47,0%; xe mô tô, xe máy công suất dưới 250cc giảm 44,1%; quần áo người lớn giảm 34,9%; bàn bằng gỗ giảm 33,0%; máy biến thế điện giảm 32,2%; thuốc kháng sinh dạng viên giảm 29,1%; thép không gỉ giảm 23,3%; cửa bằng plasstic giảm 22,2%. Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán năm nay người lao động được nghỉ từ ngày 25/01/2025 đến hết ngày 02/02/2025 nên chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tháng 02/2025 ước tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 1,2% so với cùng thời điểm năm trước. Tính chung 2 tháng đầu năm, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp tăng 0,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 3,3%; khu vực Nhà nước giảm 0,4%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 3,5%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo tăng 0,6% (sản xuất máy móc, thiết bị tăng 38,7%; sản xuất trang phục tăng 6,7%; sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 4,4%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 4,2%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 3,6%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 2,6%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 3,8%). Lao động ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,1%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,6%; ngành khai khoáng giảm 33,8%. 3. Thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước Vốn đầu tư thực hiện từ ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng 02/2025 ước tính đạt 4.601 tỷ đồng, tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 96,7% so với cùng kỳ năm 2024 (chủ yếu tháng 02/2024 trùng với thời điểm nghỉ Tết Nguyên đán; năm 2025 Chính phủ quyết liệt trong việc giải ngân đầu tư công), trong đó: NSNN cấp Thành phố thực hiện 1.785 tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 80,4%; NSNN cấp huyện 2.626 tỷ đồng, tăng 2,0% và gấp 2,1 lần cùng kỳ; NSNN cấp xã 190 tỷ đồng, tăng 14,6% và tăng 91,7%. Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 9.096 tỷ đồng, tăng 44,1% so với cùng kỳ năm trước và đạt 8,7% kế hoạch năm 2025, trong đó: NSNN cấp Thành phố thực hiện 3.540 tỷ đồng, tăng 38,7% và đạt 7,1%; NSNN cấp huyện 5.200 tỷ đồng, tăng 48,4% và đạt 10,2%; NSNN cấp xã 355 tỷ đồng, tăng 39,8% và đạt 9,1%. Năm 2025, Thành phố có 282 dự án được cấp vốn đầu tư công xây dựng cơ bản tập trung, trong đó 233 dự án chuyển tiếp, 49 dự án xây mới. Có 84 dự án sẽ hoàn thành trong năm nay, trong đó 76 dự án chuyển tiếp và 8 dự án mới. Kế hoạch đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách địa phương năm 2025 gần 104,6 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2% so với kế hoạch vốn của năm 2024, trong đó nguồn Thành phố được Trung ương hỗ trợ đầu tư theo mục tiêu 12,4 nghìn tỷ đồng, tăng 74%. Đến nay, các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn Thành phố đang gấp rút thi công khẩn trương, sớm hoàn thành các hạng mục theo kế hoạch đặt ra. Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Thuộc nhóm dự án quan trọng quốc gia, tuyến đường đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có tổng chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 hơn 75 nghìn tỷ đồng, tổng khối lượng giải phóng mặt bằng 1.386 ha, trên tuyến xây dựng 3 cầu lớn vượt Sông Hồng, Sông Đuống và 8 nút giao khác. Sau hơn 1 năm khởi công, đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội đang dần hình thành, đã giải ngân 14,2% kế hoạch vốn. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 50,8% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 15,2% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 22,4% kế hoạch vốn. Dự án hệ thống xử lý nước thải Yên Xá thành phố Hà Nội: Có mức đầu tư 16,3 nghìn tỷ đồng, trong đó, 84,1% vốn vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản. Dự án bao gồm một nhà máy xử lý nước thải với công suất 270 nghìn m³/ngày đêm và tuyến cống gom nước thải dọc sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, một phần sông Nhuệ với diện tích phục vụ khoảng 4.874 ha. Đến nay hệ thống dẫn nước thải từ sông Tô Lịch về nhà máy trên để xử lý đã cơ bản hoàn thành, trong 6 tháng đầu năm 2025 nhà máy xử lý nước thải Yên Xá đi vào vận hành thử nghiệm. Đến nay dự án đã giải ngân 36,3% kế hoạch vốn. 4. Tình hình đăng ký doanh nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài 4.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Hai, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 1.428 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 8,5% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 7.039 tỷ đồng, giảm 42,5%; 440 doanh nghiệp hoạt động trở lại, giảm 15,8%; 875 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 3,7%; 476 doanh nghiệp giải thể, tăng 78,9%. Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 3.294 doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 20,8 nghìn tỷ đồng, giảm 18% về số lượng doanh nghiệp và giảm 50,3% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 3.166 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 3,9%; 13,6 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 20,2%; 977 doanh nghiệp giải thể, tăng 29%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 4.2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Tháng Hai, thành phố Hà Nội thu hút 371,2 triệu USD, trong đó: 31 dự án FDI được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký 9,2 triệu USD; có 12 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 336,3 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua phần cổ phần 28 lượt, đạt 25,7 triệu USD. Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, toàn Thành phố thu hút hơn 1.101 triệu USD vốn FDI, tăng 2%. Trong đó: Đăng ký cấp mới 51 dự án với số vốn đạt 20,1 triệu USD; 24 dự án bổ sung tăng vốn đầu tư với 1.038 triệu USD; 52 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 42,7 triệu USD. 5. Thương mại, du lịch và dịch vụ 5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Tháng Hai năm nay là thời điểm diễn ra các hoạt động Lễ hội sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ và Lễ hội Xuân 2025, tình hình cung cầu hàng hóa tại các chợ truyền thống, chuỗi siêu thị, trung tâm thương mại cơ bản ổn định, đảm bảo nguồn cung ra thị trường, không xảy ra hiện tượng thiếu hàng, tăng giá. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Hai ước tính đạt 71,9 nghìn tỷ đồng, giảm 8,1% so với tháng trước và tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 46,1 nghìn tỷ đồng, giảm 9,2% và tăng 5,2%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 9,7 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% và tăng 18,1%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, giảm 6,8% và tăng 7,3%; doanh thu dịch vụ khác đạt 13,9 nghìn tỷ đồng, giảm 10,8% và tăng 6,9%. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 150,1 nghìn tỷ đồng, tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 96,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 64,6% tổng mức và tăng 11,4% (đá quý, kim loại quý tăng 15,9%; vật phẩm văn hóa, giáo dục tăng 14,8%; phương tiện đi lại tăng 14,4%; xăng dầu tăng 13,3%; lương thực, thực phẩm tăng 12,6%; ô tô con và hàng may mặc cùng tăng 12,5%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 11,3%; hàng hóa khác tăng 8,8%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 19,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,8% và tăng 15% (dịch vụ lưu trú tăng 18,4%; dịch vụ ăn uống tăng 14,6%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 4,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 3% và tăng 12,2%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 29,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,6% và tăng 11,1%. Tổng hợp tình hình hàng hóa phục vụ trước, trong và sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025 trên địa bàn Thành phố Công tác chuẩn bị và tổ chức các hoạt động phục vụ Tết: Đáp ứng nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của người dân trong dịp Tết Nguyên đán 2025, các đơn vị sản xuất, kinh doanh trên địa bàn đã có Kế hoạch sản xuất, khai thác, luân chuyển hàng hóa từ 02-03 tháng trước Tết. Vì vậy, hàng hóa phục vụ Tết dồi dào, đa dạng, không xảy ra tình trạng thiếu hàng, tăng giá đột biến. Để thúc đẩy hoạt động bán hàng trong dịp Tết, các doanh nghiệp kinh doanh thương mại, hệ thống bán lẻ đều đa dạng hóa phương thức bán hàng (bán hàng trực tiếp, qua các kênh bán hàng thương mại điện tử thông qua website, nền tảng mạng xã hội) và liên kết với các đơn vị giao hàng để thu hút người mua sắm. Trong dịp Tết Nguyên đán 2025, doanh thu bán hàng phục vụ Tết của các doanh nghiệp thương mại trên địa bàn tăng trung bình 5% so với Tết Giáp Thìn 2024; một số đơn vị phân phối lớn doanh thu bán hàng trực tuyến chiếm khoảng 25% tổng doanh thu bán hàng; số lượng đơn đặt hàng tăng trung bình 15% - 20% so với trước Tết và so với cùng kỳ Tết 2024; tỷ lệ khách hàng thanh toán trực tuyến không dùng tiền mặt chiếm 50% tại các hệ thống phân phối lớn và chiếm khoảng 30% - 40% tại các cửa hàng tiện lợi nhỏ. Giá cả hàng hóa duy trì ổn định so với thời điểm trước Tết. Sau Tết các đơn vị vẫn đảm bảo lượng hàng hóa trong kho hợp lý sẵn sàng phục vụ nhân dân. Đến ngày mùng 6 Tết, hầu hết các siêu thị, cửa hàng tiện lợi đã mở cửa trở lại với nhiều chương trình khuyến mãi, lì xì đầu xuân cho khách hàng, hàng hóa tại các điểm bán vẫn phong phú, đa dạng, giá bán ổn định so với trước Tết đáp ứng nhu cầu mua sắm sau Tết của người dân. Đối với các chợ trên địa bàn: Vào các ngày sát Tết, lượng hàng thực phẩm tươi sống về chợ tăng 20% và lượng khách đến mua sắm tăng trung bình 30% so với ngày thường. Giá cả hàng hóa tại chợ ổn định, không có hiện tượng tăng giá đột biến. Tại các chợ truyền thống, việc thanh toán không dùng tiền mặt đã trở nên phổ biến, được các hộ kinh doanh và người tiêu dùng lựa chọn. Từ chiều mùng Hai Tết, một số chợ đã hoạt động trở lại tuy nhiên số lượng tiểu thương chưa nhiều. Theo phong tục truyền thống, đầu năm các mặt hàng được bày bán và tiêu thụ trong ngày này chủ yếu là hoa, quả tươi, bánh kẹo phục vụ việc đi lễ, nguồn cung các mặt hàng tươi sống tương đối phong phú như thịt lợn, thịt bò, thịt gia cầm, thủy hải sản, rau xanh… nên không xảy ra hiện tượng tăng giá đột biến, giá bán hàng hoá cơ bản ổn định so với thời điểm sát Tết. Đối với các sàn thương mại điện tử (TMĐT): Các sàn TMĐT đã triển khai nhiều chương trình khuyến mại cùng chính sách, dịch vụ giúp khách hàng mua sắm thuận tiện và thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa như liên kết với các tỉnh thành xây dựng các gói chương trình hàng Việt, các chương trình ưu đãi như cung cấp voucher tích lũy, voucher giảm giá và mã miễn phí vận chuyển, các chương trình ưu đãi riêng cho khách hàng thanh toán trực tuyến thông qua ví điện tử hoặc thẻ ngân hàng, chơi mini game săn mã khuyến mại… để hỗ trợ người tiêu dùng mua được sản phẩm cần thiết, giá hợp lý... Thời điểm trước Tết, số lượng đơn hàng của các sàn thương mại điện tử tăng trưởng khoảng 30% - 50% so với cùng kỳ năm trước, tập trung nhiều đối với các nhóm hàng mứt, hoa quả sấy khô, kẹo, bánh, nước giải khát. Đối với các điểm tổ chức chợ Hoa Xuân: Lượng khách tham quan, mua sắm dịp Tết 2025 bắt đầu tăng từ sau ngày 23 tháng Chạp, lượng người mua tăng cao nhất trong ngày 25/01/2025 (tức ngày 26 tháng Chạp) với mức tăng khoảng 20% so với những ngày trước đó. Nhu cầu của người dân tập trung vào các mặt hàng đào, quất, mai có kích cỡ nhỏ, dáng đẹp hoặc các loại hoa lạ như mộc lan, tuyết mai, các loại hoa cây cảnh có giá bán hợp lý. Giá bán các loại hoa như ly, cúc, hồng thấp hơn so với năm trước do thời tiết thuận lợi; giá bán đào, quất ở mức cao hơn so với năm trước do nguồn cung bị ảnh hưởng bởi cơn bão số 3. Chiều ngày 29 tháng Chạp, một số mặt hàng hoa tiếp tục áp dụng giảm giá 30%-50% để thu hút người dân mua sắm, đẩy mạnh lượng hàng bán ra. Đến trước 20h00 ngày 28/01/2025 (tức ngày 29 Tết) các điểm tổ chức chợ Hoa Tết đã thực hiện việc đóng cửa, dừng hoạt động, thu dọn vệ sinh đảm bảo vệ sinh môi trường, mỹ quan đô thị. Tình hình cung ứng xăng dầu đảm bảo cung cấp đầy đủ cho thị trường Hà Nội; 100% các đơn vị kinh doanh điện triển khai phương án đảm bảo điện an toàn, củng cố cơ sở vật chất lưới điện, làm tốt công tác dự phòng, duy trì cấp điện an toàn, liên tục, ổn định trên địa bàn trong suốt dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025. Công tác đảm bảo an toàn, phòng, chống cháy nổ tại các doanh nghiệp được nghiêm túc thực hiện, không xảy ra sự cố cháy nổ, mất an toàn hóa chất, vật liệu nổ công nghiệp trên địa bàn Thành phố. 5.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Hai ước tính đạt 1.371 triệu USD, giảm 0,5% so với tháng trước và tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 558 triệu USD, giảm 0,4% và giảm 19,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 813 triệu USD, giảm 0,6% và tăng 75,4%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ như: Hàng dệt may đạt 194 triệu USD, tăng 67,4%; máy móc, thiết bị phụ tùng đạt 192 triệu USD, tăng 38,4%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 168 triệu USD, tăng 4%; hàng nông sản đạt 112 triệu USD, tăng 13,4%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 70 triệu USD, gấp 2 lần cùng kỳ; giày dép và các sản phẩm từ da đạt 38 triệu USD, gấp 2,1 lần cùng kỳ; hàng hóa khác đạt 372 triệu USD, tăng 31%. Trong tháng, 3/12 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm với so cùng kỳ: Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 138 triệu USD, giảm 10,3%; xăng dầu đạt 39 triệu USD, giảm 68,8%; điện thoại và linh kiện đạt 6 triệu USD, giảm 1,1%. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 2.748 triệu USD, tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 1.118 triệu USD, giảm 29,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 1.630 triệu USD, tăng 47,8%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ như: Hàng dệt, may đạt 388 triệu USD, tăng 31%; máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 386 triệu USD, tăng 14,1%; hàng nông sản đạt 224 triệu USD, tăng 3,8%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 141 triệu USD, tăng 24,5%; giầy dép và các sản phẩm từ da đạt 77 triệu USD, tăng 42,7%; hàng hóa khác đạt 743 triệu USD, tăng 15%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ như: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 338 triệu USD, giảm 5,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 276 triệu USD, giảm 12,4%; xăng dầu đạt 79 triệu USD, giảm 70,9%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Hai ước tính đạt 3.141 triệu USD, giảm 0,7% so với tháng trước và tăng 26,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 2.666 triệu USD, giảm 0,6% và tăng 29,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 475 triệu USD, giảm 1,3% và tăng 10,8%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị phụ tùng đạt 588 triệu USD, tăng 68,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 196 triệu USD, tăng 47,9%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 195 triệu USD, tăng 43,2%; kim loại khác đạt 129 triệu USD, tăng 70,3%; chất dẻo đạt 100 triệu USD, tăng 34,9%; vải đạt 76 triệu USD, tăng 30,4%; hàng hóa khác đạt 1.071 triệu USD, tăng 26,4%. Trong tháng, 4/14 nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 372 triệu USD, giảm 2,5%; sắt thép đạt 138 triệu USD, giảm 7,5%; hàng điện gia dụng và linh kiện đạt 52 triệu USD, giảm 22,4%; ngô đạt 44 triệu USD, giảm 44,3%. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 6.305 triệu USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 5.349 triệu USD, tăng 8,5%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đạt 956 triệu USD, tăng 0,1%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn như: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 1.178 triệu USD, tăng 31,9%; xăng dầu đạt 746 triệu USD, giảm 5,4%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 393 triệu USD, tăng 36,4%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 391 triệu USD, tăng 13,3%; sắt thép đạt 276 triệu USD, giảm 14,1%; kim loại khác đạt 259 triệu USD, tăng 45,3%; chất dẻo đạt 200 triệu USD, tăng 7,5%; hàng hóa khác đạt 2.157 triệu USD, tăng 1,2%. 5.3. Vận tải và bưu chính chuyển phát Sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ, nhu cầu đi lại của người lao động quay trở lại Thành phố tiếp tục công việc; học sinh, sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng quay trở lại trường học; người dân đi tham quan du Xuân, Lễ hội đầu năm tăng cao nên lượng phương tiện giao thông tăng đáng kể. Cùng với chất lượng phục vụ được quan tâm, ứng dụng hiện đại công nghệ thông tin trong quản lý, cung cấp dịch vụ chất lượng tốt được đẩy mạnh, hoạt động vận tải trong tháng 02/2025 đã đáp ứng tốt nhu cầu đi lại của người dân và lưu thông hàng hóa. Vận chuyển hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng Hai ước đạt 40,1 triệu lượt người, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 16% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1,2 tỷ lượt người.km, tăng 1,4% và tăng 27,5%; doanh thu ước tính đạt 2,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% và tăng 15,9%. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, số lượt hành khách vận chuyển đạt 79,6 triệu lượt người, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 2,3 tỷ lượt người.km, tăng 17,6%; doanh thu đạt 4,1 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Hai ước tính đạt 146,3 triệu tấn, giảm 1,7% so với tháng trước và tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 14,3 tỷ tấn.km, giảm 1% và tăng 11,3%; doanh thu ước tính đạt 6,8 nghìn tỷ đồng, giảm 1,5% và tăng 11,8%. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 295,2 triệu tấn, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 28,7 tỷ tấn.km, tăng 12,3%; doanh thu đạt 13,7 nghìn tỷ đồng, tăng 13%. Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải: Tháng Hai ước tính đạt 9,1 nghìn tỷ đồng, giảm 1,5% so với tháng trước và tăng 25,7% so với cùng kỳ. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, doanh thu ước đạt 18,3 nghìn tỷ đồng, tăng 29,6% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát: Tháng Hai ước tính đạt 1,3 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% so với tháng trước và tăng 18,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, doanh thu ước đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, tăng 22,6% so với cùng kỳ năm 2024. 5.4. Du lịch Ngay từ đầu năm, Thành phố chú trọng đổi mới công tác truyền thông, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch, các điểm đến, các sản phẩm du lịch mới của Thủ đô trên các kênh truyền thông, truyền hình trong nước và tổ chức thực hiện hiệu quả chương trình tuyên truyền, quảng bá trên kênh CNN. Xây dựng đa dạng các hình thức truyền thông trên các nền tảng số, Website, nền tảng mạng xã hội và các hình thức tuyên truyền quảng bá khác phù hợp trên không gian mạng nhằm tạo sức lan tỏa lớn và thu hút khách đến Hà Nội. Thành phố sản xuất nhiều clip mới về Thủ đô, thực hiện biên tập, dịch bài thuyết minh các điểm đến du lịch được chuẩn hóa sang 5 ngôn ngữ (Anh, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc); thiết kế, sản xuất sản phẩm quà tặng, bộ nhận diện du lịch, ấn phẩm du lịch Hà Nội đặc sắc, mang đậm nét văn hóa Thủ đô, phục vụ công tác tuyên truyền, quảng bá, xúc tiến du lịch và phục vụ khách du lịch tại các khu, điểm tham quan du lịch. Điểm mới trong năm nay, Hà Nội sẽ chú trọng phát triển du lịch đường sông, kết nối điểm đến dọc sông Hồng, sông Đuống, mở rộng tuyến từ bến Chương Dương Độ đến Sơn Tây, Ba Vì; tăng cường liên kết, quảng bá và xúc tiến các thị trường quốc tế trọng điểm như Đông Bắc Á, ASEAN, EU, cũng như các thị trường mới tiềm năng như Ấn Độ, Đông Âu... Trong tháng 02/2025, nền tảng du lịch trực tuyến lớn nhất thế giới đã công bố kết quả giải thưởng thường niên tôn vinh những điểm đến xuất sắc nhất dựa trên đánh giá từ hàng triệu du khách toàn cầu. Thành phố Hà Nội tự hào được ghi danh trong 3 hạng mục quan trọng: Vị trí thứ 2 trong 25 điểm đến văn hóa hàng đầu thế giới; vị trí thứ 7 trong 25 điểm đến hàng đầu thế giới và vị trí thứ 14 ở hạng mục đặc biệt trong 25 điểm đến được yêu thích nhất mọi thời đại nhân kỷ niệm 25 năm thành lập Tripadvisor. Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội do cơ sở lưu trú phục vụ tháng Hai ước đạt 563 nghìn lượt người, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 24,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, khách du lịch đến Hà Nội đạt 1.117 nghìn lượt người, tăng 17,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế tháng Hai ước đạt 390 nghìn lượt người, giảm 0,8% so với tháng trước và tăng 24,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, khách quốc tế đạt 783 nghìn lượt người, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 91,1 nghìn lượt người, tăng 13,7%; Trung Quốc 75,7 nghìn lượt người, tăng 2,7%; Mỹ 56,9 nghìn lượt người, tăng 4,1%; Anh 45,6 nghìn lượt người, tăng 25,8%; Nhật Bản 39,7 nghìn lượt người, tăng 29%; Pháp 38 nghìn lượt người, tăng 39,8%; Đức 32,2 nghìn lượt người, tăng 17,7%; Ma-lai-xi-a đạt 24,1 nghìn lượt người, tăng 15,6%; Xin-ga-po 12,2 nghìn lượt người, tăng 16,1%; Thái Lan 11,8 nghìn lượt người, tăng 3,7%. Khách nội địa tháng Hai ước đạt 173 nghìn lượt người, tăng 7,1% so với tháng trước và tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 02 tháng đầu năm 2025, khách nội địa đến Hà Nội đạt 334 nghìn lượt người, tăng 18,4% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình hoạt động của cơ sở lưu trú và các dịch vụ du lịch khác: Tính đến cuối tháng 02/2025, trên địa bàn Thành phố có 3.761 cơ sở lưu trú du lịch với 71,3 nghìn phòng, trong đó 94 khách sạn, khu căn hộ được xếp hạng từ 1 đến 5 sao với 12,3 nghìn phòng. Công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn tháng 02/2025 ước đạt 62,3%, tăng 1,2% so với cùng kỳ năm 2024. Đến nay trên địa bàn Hà Nội có 97 cơ sở kinh doanh dịch vụ được công nhận đạt chuẩn phục vụ khách du lịch, trong đó có 45 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, 43 cơ sở kinh doanh dịch vụ mua sắm, 7 cơ sở kinh doanh vui chơi giải trí và 2 cơ sở kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã được công nhận đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Về hoạt động lữ hành và hướng dẫn viên: Tính đến cuối tháng 02/2025 trên địa bàn Hà Nội có 2.041 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế; 518 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa; 32 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch, 7 văn phòng đại diện doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài; 6.472 hướng dẫn viên du lịch quốc tế; 2.377 hướng dẫn viên du lịch nội địa và 103 hướng dẫn viên du lịch tại điểm đang hoạt động. 6. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 02/2025 tăng 0,39% so với tháng trước, tăng 0,90% so với tháng 12/2024 và tăng 2,46% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 2 tháng đầu năm nay tăng 2,77% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Trong tháng Hai, các nhóm hàng CPI đều tăng so với tháng trước: Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,68%, tác động làm tăng CPI chung 0,14% (trong đó giá tiền thuê nhà tăng 1,09%; giá gas trong nước tăng 0,6%; giá dầu hỏa tăng 0,18%). Nhóm giao thông tăng 0,63%, tác động làm tăng CPI chung 0,01% chủ yếu do giá xăng bình quân trong tháng tăng 0,7% so với bình quân tháng trước. Nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,44%, tác động làm tăng CPI 0,02% do sau Tết đang là mùa Lễ hội đầu năm mới. Kéo theo nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống cũng tăng 0,4%, tác động làm tăng CPI chung 0,12%, (trong đó ăn uống ngoài gia đình tăng 0,75%; giá lương thực tăng 0,51%; giá thực phẩm tăng 0,25%). Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,31%, tác động làm tăng CPI 0,02%. Các nhóm còn lại tăng nhẹ, không tác động nhiều đến CPI chung: Nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,21%; thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,15%; đồ uống và thuốc lá tăng 0,03%; nhóm giáo dục và nhóm thuốc và dịch vụ y tế cùng tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,26%. Bình quân 2 tháng đầu năm 2025 CPI tăng 2,77% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 9/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 19,89%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,47%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 3,66%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,57%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,85%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,81%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,71%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,39%. Có 3/11 nhóm hàng CPI bình quân 2 tháng đầu năm giảm so với bình quân cùng kỳ: Nhóm giáo dục giảm 7,68%; giao thông giảm 1,34%; bưu chính viễn thông giảm 0,91%. Chỉ số giá vàng tháng 02/2025 tăng 6,51% so với tháng trước, tăng 7,54% so với tháng 12/2024 và tăng 39,87% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 2 tháng đầu năm 2025, chỉ số giá vàng tăng 37,0% so với bình quân cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 02/2025 tăng 0,12% so với tháng trước, tăng 0,24% so với tháng 12/2024 và tăng 3,65% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 2 tháng đầu năm 2025, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 3,79% so với bình quân cùng kỳ năm trước. 7. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán 7.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 2 tháng đầu năm 2025 ước thực hiện 185,7 nghìn tỷ đồng, đạt 36,7% dự toán pháp lệnh năm và tăng 63,1% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Thu nội địa 180,8 nghìn tỷ đồng, đạt 38,2% và tăng 64,5%; thu từ dầu thô 310 tỷ đồng, đạt 7,4% và bằng 43,6%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 4,6 nghìn tỷ đồng, đạt 16,7% và tăng 41,9%.Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 2 tháng đầu năm 2025: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 23 nghìn tỷ đồng, đạt 28,5% dự toán năm và tăng 0,5% so với cùng kỳ năm 2024; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 9,2 nghìn tỷ đồng, đạt 30,3% và tăng 17,1%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 38,5 nghìn tỷ đồng, đạt 37,4% và tăng 46,4%; thuế thu nhập cá nhân 11,1 nghìn tỷ đồng, đạt 22,3% và tăng 20,1%; thu tiền sử dụng đất 23,4 nghìn tỷ đồng, đạt 55,1% và gấp 9,7 lần cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 1,1 nghìn tỷ đồng, đạt 14,9% và tăng 6,7%; thu phí và lệ phí 3,8 nghìn tỷ đồng, đạt 16,2% và bằng 89,4%. Chi ngân sách địa phương 2 tháng đầu năm 2025 ước thực hiện 18,5 nghìn tỷ đồng, đạt 11,1% dự toán năm và tăng 30,9% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Chi đầu tư phát triển 5,3 nghìn tỷ đồng, đạt 6,1% và bằng 93,6%; chi thường xuyên 13,2 nghìn tỷ đồng, đạt 18,6% và tăng 56%. 7.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Tháng Hai, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), chính sách lãi suất linh hoạt cho vay tín dụng. Thời điểm trong tháng 02/2025 lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước phổ biến ở mức 0,1 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 2 - 4,75%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 2,9 - 6,1%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 4,7 - 6,6%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,7 - 9%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,8%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Các NHTM trên địa bàn dành vốn tín dụng cho vay đối với các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn tín dụng, đồng thời triển khai các biện pháp hỗ trợ khách hàng. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 02/2025, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 6.096 nghìn tỷ đồng, tăng 0,31% so với tháng trước và tăng 0,61% so với thời điểm kết thúc năm 2024, trong đó tiền gửi đạt 5.382 nghìn tỷ đồng, tăng 0,35% và tăng 0,68%; phát hành giấy tờ có giá đạt 714 nghìn tỷ đồng, tăng 0,05% và tăng 0,11%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 02/2025, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.560 nghìn tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 1,21% so với thời điểm kết thúc năm 2024, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 1.952 nghìn tỷ đồng, tăng 0,63% và tăng 1,45%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.608 nghìn tỷ đồng, tăng 0,58% và tăng 1,03%. Tính đến cuối tháng 02/2025, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,83% trong tổng dư nợ. Các TCTD thực hiện ngăn ngừa, kiểm soát nợ xấu và nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đảm bảo mục tiêu cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn được đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 12,44% trong tổng dư nợ; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 19,2%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,9%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,13%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,31%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,38%. 7.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết ngày 25/02/2025, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.199 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 311 doanh nghiệp và Upcom có 888 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 639,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% so với cuối tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 165,9 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% và tăng 4,7%; Upcom đạt 473,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% và tăng 9,1%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch ngày 25/02/2025 đạt 1.860,7 nghìn tỷ đồng, giảm 2,1% so với cuối tháng trước và tăng 26,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 377,7 nghìn tỷ đồng, tăng 8% và tăng 18,9%; Upcom đạt 1.483 nghìn tỷ đồng, giảm 4,4% và tăng 29,1%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tính đến hết ngày 25/02/2025, khối lượng giao dịch trung bình 1 ngày/tháng đạt 64,9 triệu CP được chuyển nhượng, tăng 36% so với trung bình 1 ngày/tháng trước và giảm 24% so với trung bình 1 ngày/tháng cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 1,04 nghìn tỷ đồng, tăng 36,8% và giảm 36,9%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh trung bình 1 ngày/tháng đạt 59 triệu CP, tăng 44,4% và giảm 26,4%; giá trị đạt 0,95 nghìn tỷ đồng, tăng 45% và giảm 38,3%. Tính đến hết ngày 25/02/2025, khối lượng giao dịch chung 2 tháng đầu năm đạt 1,9 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 30,6 nghìn tỷ đồng, giảm 35,2% khối lượng và giảm 45,9% giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Một, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 148 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 15 mã giao dịch; cá nhân 133 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới tháng 01/2025 đạt 80,7 nghìn tài khoản. 8. Một số vấn đề xã hội 8.1. Giải quyết việc làm Theo Báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, trong tháng Hai năm nay, Thành phố giải quyết việc làm cho 13,7 nghìn lao động, tăng 7,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: 3,6 nghìn lao động được tạo việc làm từ nguồn vốn ngân sách Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội; 404 lao động nhận được việc làm sau khi phỏng vấn tại các phiên, sàn giao dịch việc làm; 305 lao động được giải quyết việc làm qua hình thức xuất khẩu lao động; 9,4 nghìn lao động nhận được việc từ dịch vụ cung ứng việc làm của các doanh nghiệp và qua các hình thức khác. Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, Thành phố giải quyết việc làm cho 26,4 nghìn lao động, đạt 15,8% kế hoạch năm, tương đương cùng kỳ năm 2024. Cũng trong tháng 02/2025, Thành phố ra quyết định trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp cho 3,8 nghìn người với số tiền hỗ trợ 105,8 tỷ đồng, giảm 20,8% về số người và giảm 34,7% số tiền so với cùng kỳ năm 2024; hỗ trợ học nghề cho 81 trường hợp, số tiền hỗ trợ học nghề là 330 triệu đồng. Tính chung 2 tháng đầu năm 2025, Thành phố quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 7,6 nghìn người với số tiền hỗ trợ 214 tỷ đồng, giảm 24% về số người và giảm 32,1% số tiền; 100% người thất nghiệp được tư vấn hỗ trợ việc làm mới, trong đó hỗ trợ học nghề cho 117 người có hoàn cảnh khó khăn với số tiền 488,4 triệu đồng. 8.2. Bảo đảm an sinh xã hội Trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025, các cơ quan, địa phương, lực lượng chức năng đã triển khai thực hiện nghiêm túc chỉ đạo của Thành phố, quan tâm, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho người dân; đảm bảo người dân đón Tết trong không khí vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm, nghĩa tình; mọi người, mọi nhà đều được vui xuân, đón Tết. Cũng trong dịp này Thành phố đã thăm hỏi tặng 2.270 nghìn suất quà Tết cho các đối tượng chính sách ưu đãi, người có công, người nghèo, người cao tuổi, cán bộ nghỉ hưu, mất sức, người lao động có hoàn cảnh khó khăn; các tổ chức, gia đình, cá nhân tiêu biểu; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, đối tượng bảo trợ xã hội với tổng số tiền 1.067 tỷ đồng, đạt 188% so với kế hoạch tặng quà của Thành phố, tăng 33,5 tỷ đồng (tương đương tăng 3,2%); số suất quà tăng 51,7 nghìn suất (tương đương tăng 2,3%) so với kết quả tặng quà Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024. Trong tháng Hai, công tác đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội tiếp tục được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện. Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 432 hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công, thân nhân người có công và các đối tượng liên quan, cộng dồn 2 tháng đầu năm 2025 Thành phố giải quyết trên 1.114 hồ sơ. Thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp cho hơn 78 nghìn người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 480 tỷ đồng. Công tác bảo trợ xã hội được thực hiện tốt, trên địa bàn Thành phố hiện có 204 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Các quận, huyện, thị xã đã chi trả trợ cấp đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch cho các đối tượng với tổng kinh phí chi trả tháng 02/2025 là 289,3 tỷ đồng, cộng dồn 2 tháng đầu năm là 578,6 tỷ đồng. Tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố đang thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.130 người (gồm người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác) với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,8 triệu đồng/người/tháng, trẻ em dưới 4 tuổi là 2,2 triệu đồng/tháng và chi khác 350 nghìn đồng/tháng. 8.3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội Năm 2025, theo kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 95,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 47,5% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 3,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 45% lực lượng lao động. Tính đến hết tháng 02/2025, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 95,26% dân số với 8.085 nghìn người tham gia, tăng 0,22% so cuối tháng trước và tăng 2,07% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.188 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 46,4%), tăng 0,09% và tăng 5,43%; gần 105,9 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,9%), tăng 0,79% và tăng 28,49%. Số người tham gia BHTN là 2.120 nghìn người (chiếm 44,9%), tăng 0,09% và tăng 15,72%. Tính đến cuối tháng Hai, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 10,2 nghìn tỷ đồng, tăng 12,54% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 6.437 tỷ đồng, tăng 18,43% so với cùng kỳ năm 2024 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng là 4.062 tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 1.788 tỷ đồng). 8.4. Tình hình dịch bệnh và an toàn thực phẩm Theo số liệu của Sở Y tế Hà Nội, trong tháng Hai (từ ngày 16/01/2025 đến ngày 15/02/2025) tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue có xu hướng giảm so với tháng trước. Trong kỳ báo cáo ghi nhận 111 ca mắc, cộng dồn từ đầu năm 2025 đến nay toàn Thành phố có 441 ca mắc, không có trường hợp tử vong (cùng kỳ năm 2024 có 432 ca mắc, 0 tử vong). Bệnh Tay chân miệng ghi nhận 79 ca mắc, cộng dồn từ đầu năm ghi nhận 96 ca mắc, 0 tử vong (cùng kỳ 70 ca mắc, 0 tử vong). Số ca mắc Sởi trên địa bàn trong tháng ghi nhận 417 ca mắc, cộng dồn từ đầu năm đến nay ghi nhận 441 ca mắc, không ghi nhận trường hợp tử vong (cùng kỳ 0 ghi nhận ca mắc). Bệnh ho gà 7 ca mắc, 0 tử vong (cùng kỳ 0 ghi nhận ca mắc). Các dịch bệnh khác như thủy đậu, dại, liên cầu lợn, viêm não Nhật Bản, uốn ván không ghi nhận ca mắc. Đến nay, Hà Nội chưa ghi nhận ca mắc đậu mùa khỉ, bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm (ATTP) trong dịp Tết Nguyên Đán và mùa lễ hội Xuân 2025, các cơ quan chức năng của Thành phố đã tích cực phối hợp với chính quyền địa phương, nhất là ở những nơi có khu du lịch, điểm di tích, tăng cường kiểm tra, giám sát, nhằm kịp thời phát hiện, ngăn chặn và xử lý các trường hợp vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Trước nhu cầu tiêu dùng tăng cao dịp Lễ hội đầu năm, tình hình buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả diễn biến phức tạp. Lực lượng chức năng thành phố Hà Nội tập trung tăng cường lực kiểm tra, kiểm soát thị trường, bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng, phát hiện kịp thời các hành vi vi phạm sản xuất, tiêu thụ sản phẩm không đạt so với hồ sơ công bố; sản xuất, buôn bán hàng hóa có nhãn nhưng không ghi đầy đủ hoặc ghi không đúng nội dung bắt buộc thể hiện trên nhãn sản phẩm; quảng cáo thực phẩm không đúng với hồ sơ công bố; kinh doanh hàng hóa có hình ảnh, chữ viết không đúng với bản chất của sản phẩm. 8.5. Giáo dục và đào tạo Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán Ất Tỵ dài 9 ngày, các trường học trên địa bàn thành phố Hà Nội đã duy trì lịch trực bảo vệ, công tác an ninh trật tự, an toàn phòng chống cháy, nổ được bảo đảm, không để xảy ra sự cố. Việc đón học sinh trở lại trường sau kỳ nghỉ được thực hiện chu đáo, ngay từ chiều ngày 02/02/2025 (mùng 5 Tết) cán bộ, giáo viên, nhân viên các trường học đã tới trường làm vệ sinh, chuẩn bị cơ sở vật chất, hệ thống điện, đèn chiếu sáng được đặc biệt quan tâm; các trường mầm non và phổ thông có tổ chức bữa ăn bán trú chú trọng rà soát các điều kiện bếp ăn và kiểm tra nguồn thực phẩm, sẵn sàng tổ chức bữa ăn an toàn, bảo đảm dinh dưỡng ngay trong ngày đầu tiên 03/02/2025 học sinh trở lại trường học; nhanh chóng ổn định nền nếp dạy, học ngay trong những ngày đầu năm mới. Kết quả Kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia trung học phổ thông (THPT) năm học 2024-2025 do Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức vào ngày 25 và 26/12/2024 có 6.482 thí sinh dự thi, thành phố Hà Nội tiếp tục dẫn đầu cả nước với 200 học sinh đoạt giải, trong đó có 18 giải Nhất, 60 giải Nhì, 65 giải Ba và 57 giải Khuyến khích. Kết quả năm nay cao hơn hẳn so với năm trước (năm 2023 - 2024 học sinh Hà Nội đoạt 184 giải với 14 giải Nhất, 61 giải Nhì, 54 giải Ba và 55 giải Khuyến khích). Cũng trong tháng Hai, Thành phố công bố kết quả xếp giải Kỳ thi chọn học sinh giỏi Thành phố các môn văn hóa lớp 12 cấp THPT năm học 2024-2025, tuyên dương các tập thể cá nhân có thành tích xuất sắc, công nhận 2.535/4.400 học sinh đoạt giải với 123 giải Nhất, 543 giải Nhì, 718 giải Ba, 1.151 giải Khuyến khích. Đến hết tháng Hai, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 65,1% (công lập 80,4%), trong đó tỉ lệ đạt chuẩn quốc gia của các cấp học: Mầm non là 56,6% (công lập 79,8%); Tiểu học 73,1% (công lập 77,7%); Trung học cơ sở 81,7% (công lập 87,6%); Trung học phổ thông 37,1% (công lập 67,2%). Số cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở đăng ký hoạt động giáo dục nghề trên địa bàn Hà Nội hiện có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở đăng ký hoạt động giáo dục nghề, trong đó: 66 trường cao đẳng, 59 trường trung cấp, 39 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, 18 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 131 doanh nghiệp, loại hình khác. 8.6. Hoạt động văn hóa, thể thao Hoạt động văn hóa: Trong tháng Hai, Thành phố đã thực hiện công tác thông tin tuyên truyền chào năm mới Ất Tỵ và chào mừng 95 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trang trí cổ động trực quan 1.718 m2 pano các loại;10 cụm mô hình; 1.987 băng rôn dọc; 3.024 Quốc Kỳ và Đảng Kỳ; 08 cụm cờ; duy trì chiếu sáng mỹ thuật tại các tuyến phố, tuyến đường trọng điểm của Thủ đô, các vị trí cửa ngõ ra vào Thành phố, vị trí tại các vòng xoay, đảo giao thông... Đăng các hoạt động, hình ảnh tiêu biểu của Thủ đô Hà Nội trên hệ thống 50 màn hình Led; tổ chức triển lãm ảnh trưng bày 180 bức ảnh khổ lớn “Mừng đất nước đổi mới, Mừng Đảng quang vinh, Mừng xuân Ất Tỵ 2025” tại Nhà triển lãm; đăng 120 tin, bài trên Cổng Thông tin điện tử Hà Nội với số lượt truy cập đạt trung bình hơn 2000 lượt/ngày. Các di tích lịch sử trên địa bàn Thành phố đã tổ chức tiếp đón các cơ quan, đoàn thể và Nhân dân đến dâng hương, tham quan du lịch tất cả các ngày trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Ước tính trong tháng 02/2025, các di tích đã đón hơn 400 nghìn lượt khách tham quan, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu phí 25 tỷ đồng, tăng 27,6%. Tính chung 2 tháng đầu năm nay các di tích đón 648 nghìn lượt người, tăng 21,2% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu phí 36,6 tỷ đồng, tăng 16,9% (hoàn thành 48,8% kế hoạch giao thu năm 2025). Tại Bảo tàng Hà Nội đã tổ chức các hoạt động triển lãm, trưng bày chuyên đề, các hoạt động giáo dục truyền thống, tổ chức các hoạt động hội thảo, tọa đàm, sự kiện lịch sử, văn hóa phục vụ Nhân dân và khách tham quan, trong tháng đón 2,1 nghìn lượt khách đến tham quan, lũy kế 2 tháng đầu năm đón 2,8 nghìn lượt khách. Cũng trong tháng Hai, Thành phố đã tổ chức được 229 buổi diễn, trong đó 06 buổi phục vụ chính trị, 223 buổi diễn có doanh thu với tổng số tiền là 4,5 tỷ đồng, tăng 30,9% số buổi và tăng 18,4% doanh thu so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động thể thao: Trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ, các quận, huyện, thị xã đã triển khai, tổ chức nhiều giải đấu, hội thi thể dục thể thao tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích, góp phần nâng cao sức khỏe cho Nhân dân tại địa phương và các vùng lân cận. Các hoạt động thể dục thể thao đa dạng, phong phú, phù hợp với mọi lứa tuổi, từ những môn thể thao cổ truyền của dân tộc như: Các trò chơi dân gian, Vật cổ truyền, Bắn nỏ, Cờ người, Đẩy gậy, Kéo co, Nhảy bao... đến những môn thể thao được đông đảo quần chúng Nhân dân tham gia tập luyện như: Bóng đá, Bóng chuyền, Cầu lông, Võ, Quần vợt, Bóng bàn... 8.7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Trong tháng, lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đối với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông; phụ huynh học sinh, người giám hộ, người giao phương tiện cho học sinh khi chưa đủ điều kiện điều khiển; các chủ phương tiện và phụ huynh chở học sinh vi phạm các quy định về vận tải đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt. Thành phố tiếp tục bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cho nhân dân. Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm, các địa điểm Lễ hội đầu Xuân, vui chơi giải trí, những nơi tập trung đông người. Với việc triển khai đồng bộ, toàn diện các biện pháp, giải pháp, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Hai (từ 15/01/2025 đến 14/02/2025) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng phát hiện hơn 482 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 306 vụ do công an khám phá. Số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 462 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 253 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 291 đối tượng, thu nộp ngân sách gần 94,4 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 28 vụ cờ bạc, bắt giữ 117 đối tượng; phát hiện 114 vụ tội phạm và vi phạm pháp luật về ma tuý, bắt giữ 163 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 108 vụ với 148 đối tượng. Tai nạn giao thông: Tháng Hai, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 84 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 55 người chết và 53 người bị thương, trong đó đường bộ có 80 vụ tai nạn làm 51 người chết và 53 người bị thương và 4 vụ tai nạn đường sắt làm chết 4 người. Chia theo mức độ nghiêm trọng, có 1 vụ đặc biệt nghiêm trọng làm 3 người chết và 1 người bị thương, có 1 vụ tai nạn rất nghiêm trọng làm chết 2 người và 1 người bị thương; có 54 vụ nghiêm trọng làm chết 50 người và 14 người bị thương; 28 vụ ít nghiêm trọng và va chạm làm 37 người bị thương. Riêng trong 9 ngày nghỉ Tết Nguyên đán (từ ngày 25/01/2025 đến ngày 02/02/2025), trên địa bàn Thành phố xảy ra 16 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 10 người chết, 12 người bị thương (giảm 22 vụ, giảm 06 người chết, 32 người bị thương so với Tết Nguyên đán năm 2024). Cộng dồn 2 tháng đầu năm 2025, Thành phố ghi nhận 202 vụ tai nạn giao thông, trong đó 196 vụ tai nạn đường bộ và 6 vụ tai nạn đường sắt, làm 118 người chết và 136 người bị thương (2 tháng đầu năm 2024, ghi nhận 280 vụ tai nạn giao thông, làm 128 người chết và 233 người bị thương). Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng phát hiện 513 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 513 đối tượng, xử lý 521 vụ với 522 đối tượng, thu nộp ngân sách 2,6 tỷ đồng. Cũng trong tháng Hai, trên địa bàn Thành phố xảy ra 113 vụ cháy nổ và 4 vụ cháy rừng nhỏ ở lớp thực bì, làm 3 người chết và 3 người bị thương và gây thiệt hại về tài sản ước tính giá trị ban đầu 10,6 tỷ đồng. Hiện các cơ quan chức năng đang tiếp tục xác minh nguyên nhân cháy và đánh giá thiệt hại về tài sản do các vụ cháy gây ra. Cộng dồn 2 tháng đầu năm 2025, trên địa bàn Thành phố xảy ra 257 vụ cháy, nổ làm 3 người chết và 3 người bị thương (02 tháng đầu năm 2024, xảy ra 209 vụ cháy, làm 5 người chết và 1 người bị thương)./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 01 năm 2025
- 03/02/2025 23:57
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 1.1. Nông nghiệp Hoạt động sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung vào công tác thu hoạch cây màu vụ Đông; chuẩn bị gieo cấy lúa và cây màu vụ Xuân; chăm sóc và phát triển đàn gia súc, gia cầm. Vụ Đông năm nay, toàn Thành phố gieo trồng được 27,5 nghìn ha, bằng 99,5% vụ Đông năm trước, trong đó: Diện tích ngô đạt gần 5 nghìn ha, bằng 90,1% cùng kỳ năm trước; khoai lang 886 ha, bằng 99,3%; đậu tương 750 ha, bằng 104%; lạc 188 ha, bằng 83,6%; rau 14,6 nghìn ha, bằng 101,4%; đậu 77 ha, bằng 77%. Tính đến ngày 20/01/2025, ước tính toàn Thành phố đã thu hoạch được trên 70% diện tích gieo trồng cây vụ đông. Công tác chuẩn bị cho sản xuất vụ Xuân 2025 đang được các cấp, các ngành của Thành phố tập trung chỉ đạo, thực hiện nhằm đảm bảo gieo trồng đúng khung lịch thời vụ; tuyên truyền, phổ biến thông tin để người dân biết lịch thời gian lấy nước (đợt 1 và 2) phục vụ gieo cấy vụ Xuân; thực hiện đưa nước đến đâu, tranh thủ làm đất, giữ nước đến đó, không để thất thoát, lãng phí nguồn nước. Theo dõi diễn biến thời tiết để có biện pháp chăm sóc đúng kỹ thuật đối với cây mạ, cây lúa mới cấy tạo điều kiện để cây sinh trưởng và phát triển tốt. Diện tích lúa xuân sớm đã gieo cấy ước đạt 4,7 nghìn ha (tăng 3,7 nghìn ha so cùng kỳ), chủ yếu là các giống lúa dài ngày được một số địa phương đẩy nhanh tiến độ cấy trước kỳ nghỉ Tết Nguyên đán. Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Các cơ sở chăn nuôi tập trung chăm sóc, bảo vệ đàn vật nuôi nhằm cung cấp thực phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Đàn trâu hiện có 29,6 nghìn con, tăng 1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 122 nghìn con, giảm 2,4%; đàn lợn 1,2 triệu con (không bao gồm lợn sữa), giảm 1,2%; đàn gia cầm 31,7 triệu con, giảm 0,9% (đàn gà 23,4 triệu con, giảm 2,1%). 1.2. Lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung vào công tác chăm sóc, bảo vệ rừng; thu hoạch gỗ và lâm sản. Bên cạnh đó, các địa phương tích cực chuẩn bị triển khai phong trào “Tết trồng cây đời đời nhớ ơn Bác Hồ” nhân dịp Xuân Ất Tỵ 2025 đảm bảo thiết thực, hiệu quả; đồng thời tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong thực hiện Đề án “Trồng một tỷ cây xanh giai đoạn 2021-2025”. Trong tháng Một, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 1,7 nghìn m3, giảm 1,2% so với cùng kỳ năm 2024. Sản lượng thủy sản tháng Một ước tính đạt 9.215 tấn (chủ yếu là sản lượng cá), tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 9.214 tấn, tăng 3,4%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 1 tấn, tương đương cùng kỳ. 2. Sản xuất công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 01/2025 ước tính giảm 15,2% so với tháng trước và giảm 8,2% so với cùng kỳ năm 2024, chủ yếu do tháng 12/2024 là thời điểm các doanh nghiệp tập trung sản xuất với công suất lớn để kịp hàng hóa phục vụ nhu cầu tiêu dùng cao trong dịp cuối năm và Tết Ất Tỵ, bên cạnh đó tháng Một năm nay trùng với Tết Nguyên đán, người lao động được nghỉ 9 ngày nên số ngày làm việc ít hơn tháng 12/2024 và tháng 01/2024. Cụ thể: Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 16,7% so với tháng trước và giảm 9,8% so với cùng kỳ năm 2024; sản xuất và phân phối điện giảm 1,7% và tăng 5,7%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 6,9% và tăng 1,2%; công nghiệp khai khoáng giảm 11,1% và giảm 12,8%. Cùng với xu hướng chung của toàn ngành công nghiệp, trong tháng 01/2025 hầu hết các ngành công nghiệp chủ lực (chiếm tỷ trọng lớn trong ngành công nghiệp chế biến chế tạo) có chỉ số sản xuất giảm, trong đó: Sản xuất phương tiện vận tải giảm 19,6% so với tháng trước và giảm 20,5% so với cùng kỳ; sản xuất trang phục giảm 12,3% và 18,8%; in, sao chụp bản ghi giảm 32,3% và 15,5%; sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu giảm 11,5% và 13,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 17% và 11,8%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất giảm 27,8% và 11,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học giảm 3,3% và 11%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại giảm 25,9% và 10,4%. Kỳ nghỉ Tết Nguyên đán năm nay người lao động được nghỉ từ ngày 25/01/2025 đến hết ngày 02/02/2025 nên chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tháng Một năm nay ước giảm 0,1% so với tháng trước và tăng 0,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tương đương tháng trước và tăng 1,1%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 0,5% và giảm 4,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,1% và tăng 3,5%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,1% so với tháng trước và tăng 0,4% so với cùng kỳ; sản xuất, phân phối điện, khí đốt tương đương tháng trước và giảm 0,1%; cung cấp nước, xử lý rác thải, nước thải tăng 0,1% và tăng 2,4%; khai khoáng giảm 0,2% và giảm 5,1%. 3. Đăng ký doanh nghiệp và thực hiện vốn đầu tư ngân sách Nhà nước Tình hình đăng ký doanh nghiệp: Trong tháng Một, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 2.045 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 24,3% so với tháng Một năm 2024; vốn đăng ký đạt 13,8 nghìn tỷ đồng, giảm 53,4%; 3.637 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 44%; 12,7 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 21,4%; 533 doanh nghiệp giải thể, tăng 8,9%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. Thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng 01/2025 ước tính đạt 5.126 tỷ đồng, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm 2024 và đạt 4,9% kế hoạch năm 2025, trong đó NSNN cấp Thành phố thực hiện 1.916 tỷ đồng, tăng 22,6% và đạt 3,9%; NSNN cấp huyện 3.031 tỷ đồng, tăng 34,5% và đạt 6,0%; NSNN cấp xã 179 tỷ đồng, tăng 15,3% và đạt 4,6%. Tình hình thực hiện một số dự án trọng điểm trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Thuộc nhóm dự án quan trọng quốc gia, tuyến đường đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có tổng chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng, tổng khối lượng giải phóng mặt bằng 1.386 ha, trên tuyến xây dựng 3 cầu lớn vượt Sông Hồng, Sông Đuống và 8 nút giao khác. Sau hơn 1 năm khởi công, đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội đang dần hình thành, đã giải ngân 19,6% kế hoạch vốn. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 47,4% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 12,9% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 18,2% kế hoạch vốn. Dự án hệ thống xử lý nước thải Yên Xá thành phố Hà Nội: Có mức đầu tư 16,3 nghìn tỷ đồng, trong đó, 84,1% vốn vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản. Dự án bao gồm một nhà máy xử lý nước thải với công suất 270 nghìn m³/ngày đêm và tuyến cống gom nước thải dọc sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, một phần sông Nhuệ với diện tích phục vụ khoảng 4.874 ha. Đến nay hệ thống dẫn nước thải từ sông Tô Lịch về nhà máy trên để xử lý đã cơ bản hoàn thành, trong 6 tháng đầu năm 2025 nhà máy xử lý nước thải Yên Xá đi vào vận hành thử nghiệm. 4. Thương mại, du lịch và dịch vụ 4.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Tháng Một năm nay trùng vào dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ nên nhu cầu tiêu dùng của người dân những ngày sát Tết tăng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Một ước tính đạt 84,9 nghìn tỷ đồng, tăng 8,6% so với tháng trước và tăng 26,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 55 nghìn tỷ đồng, tăng 10,6% và tăng 27,4%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 11,6 nghìn tỷ đồng, tăng 4,9% và tăng 36,1%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,3 nghìn tỷ đồng, tăng 3,5% và tăng 14,8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 16 nghìn tỷ đồng, tăng 5,7% và tăng 18,9%. Tình hình chuẩn bị hàng hóa phục vụ Tết Nguyên đán Ất Tỵ Thực hiện chỉ đạo của Thành ủy, UBND Thành phố về việc đảm bảo cung cầu hàng hóa, bình ổn thị trường các mặt hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân trước, trong và sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ. Các doanh nghiệp đã ký kết hợp đồng khai thác hàng hóa phục vụ Tết tăng từ 5-20% theo từng mặt hàng so với Kế hoạch phục vụ Tết năm 2024; tại các điểm bán hàng lượng hàng hóa đã được tăng cường 30-35% sẵn sàng phục vụ của người dân (trong đó, tỷ trọng hàng Việt Nam chiếm 85-90%); 128 chuỗi liên kết sản xuất tiêu thụ nông sản an toàn, kết nối với 926 đầu mối, chuỗi, cơ sở cung ứng nông, lâm, thủy sản của 43 tỉnh, thành phố trên cả nước. Tổ chức hơn 70 sự kiện, hội chợ, tuần hàng giới thiệu sản phẩm phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân tại các quận, huyện, thị xã, các khu công nghiệp; 110 điểm bán sản phẩm OCOP và 91 điểm chợ Hoa Xuân phục vụ Tết. Trên các kênh bán hàng đa phương tiện đăng 268 website cung cấp dịch vụ thương mại điện tử (qua điện thoại, website, ứng dụng mua hàng…) của hệ thống phân phối truyền thống trên địa bàn. Hỗ trợ giới thiệu trên 3.000 sản phẩm OCOP các tỉnh, thành phố về thị trường Hà Nội, kết nối tiêu thụ lượng hàng từ các tỉnh, thành phố với 500 nghìn tấn hàng hóa. Cấp phép 192 xe vận chuyển hàng hóa thiết yếu, xăng dầu hoạt động 24/24h trong khu vực nội thành để đảm bảo lưu thông thông suốt hàng hóa phục vụ nhân dân, đặc biệt trong dịp Tết. Song song với việc chuẩn bị nguồn hàng phục vụ nhân dân trong dịp Tết, Thành phố chỉ đạo các đơn vị liên quan chú ý không để đứt gãy chuỗi cung ứng, khan hiếm hàng hóa, khiến giá cả bị đẩy lên cao; đảm bảo nguồn hàng phong phú, đa dạng, giá cả ổn định phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân trong dịp Tết. 4.2. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Một ước tính đạt 1.756 triệu USD, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 15,3% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 1.045 triệu USD, tăng 1,4% và tăng 18,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 711 triệu USD, tăng 1,5% và tăng 11,3%. Trong tháng, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 241 triệu USD, tăng 22%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 236 triệu USD, tăng 18,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 216 triệu USD, tăng 33,7%; hàng dệt, may đạt 196 triệu USD, tăng 8,4%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 85 triệu USD, tăng 8,2%; hàng hóa khác đạt 470 triệu USD, tăng 29,8%. Bên cạnh đó có 3/12 nhóm hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 110 triệu USD, giảm 24,1%; hàng nông sản đạt 95 triệu USD, giảm 18,8%; điện thoại và linh kiện đạt 8 triệu USD, giảm 9,1%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Một ước tính đạt 4.574 triệu USD, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 34,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 3.903 triệu USD, tăng 1,2% và tăng 35,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 671 triệu USD, tăng 1,3% và tăng 27,4%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 890 triệu USD, tăng 63,6%; xăng dầu đạt 515 triệu USD, tăng 26,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 420 triệu USD, gấp 2,7 lần cùng kỳ; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 274 triệu USD, tăng 31,2%; sắt thép đạt 248 triệu USD, tăng 43,9%; kim loại đạt 154 triệu USD, tăng 50,7%; chất dẻo đạt 149 triệu USD, tăng 33,2%; sản phẩm hóa chất đạt 99 triệu USD, tăng 41,1%; hàng hóa khác đạt 1.445 triệu USD, tăng 12,6%. Riêng nhóm hàng ngô đạt 59 triệu USD, giảm 23,8% so với cùng kỳ. 4.3. Du lịch Để thu hút du khách đến Hà Nội, tạo không khí vui tươi mừng năm mới Ất Tỵ, Ngành Du lịch Thủ đô đã xây dựng nhiều chương trình tour hấp dẫn phục vụ du khách trong nước và quốc tế đến tham quan, trải nghiệm với nhiều dịch vụ có mức giá ưu đãi, kích cầu du lịch. Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội do cơ sở lưu trú phục vụ tháng Một ước đạt 688 nghìn lượt người, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 37,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế ước đạt 500 nghìn lượt người, tăng 1,4% và tăng 39,7% (Khách đến từ Hàn Quốc đạt 55,5 nghìn lượt người, tăng 9,3%; Trung Quốc 38,5 nghìn lượt người, tăng 20,4%; Mỹ 36 nghìn lượt người, tăng 24,8%; Nhật Bản 22,2 nghìn lượt người, tăng 19,3%; Anh 20,2 nghìn lượt người, tăng 12,2%; Pháp 18,1 nghìn lượt người, tăng 18,3%; Đức 15,5 nghìn lượt người, tăng 18,3%; Ma-lai-xi-a đạt 9,2 nghìn lượt người, tăng 2,8%; Canada 9 nghìn lượt người, tăng 15,5%; Xin-ga-po 8,2 nghìn lượt người, giảm 6,5%; Thái Lan 7 nghìn lượt người, giảm 19,5%); khách nội địa ước đạt 188 nghìn lượt người, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 30,6% so với cùng kỳ năm trước. 4.4. Vận tải và bưu chính chuyển phát Tháng Một vào thời điểm Tết Nguyên đán nên nhu cầu vận tải tăng cao. Thời gian này, công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông được Thành phố đặc biệt quan tâm. Thành phố sẵn sàng các phương án phục vụ tốt nhất nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân trong dịp Tết. Tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải và bưu chính chuyển phát tháng Một ước đạt 21,1 nghìn tỷ đồng tăng 23,9% so với cùng kỳ năm 2024. Vận chuyển hành khách: Trong tháng Một, số lượt hành khách vận chuyển ước tính đạt 39,6 triệu lượt người, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 23,5% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1.157 triệu lượt người.km, tăng 2,5% và tăng 9%; doanh thu ước tính đạt 2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% và tăng 16,7%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Một ước tính đạt 149,2 triệu tấn, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 14,6 tỷ tấn.km, tăng 2,5% và tăng 14,9%; doanh thu ước tính đạt 8,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% và tăng 14,9%. Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải: Tháng Một ước tính đạt 9,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 35% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát: Tháng Một ước tính đạt 1,3 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 26,9% so với cùng kỳ năm trước. Công tác chuẩn bị phương tiện vận tải phục vụ nhu cầu của người dân trong dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ Nhằm phục vụ nhu cầu đi lại tăng cao của người dân trước, trong và sau Tết Nguyên đán Ất Tỵ, Thành phố đã chỉ đạo các đơn vị sẵn sàng chuẩn bị các phương án nhằm phục vụ tốt nhất nhu cầu đi lại của người dân, không được để bất kỳ người dân nào không có xe về quê đón Tết. Các đơn vị vận tải hành khách liên tỉnh bố trí xe dự phòng, tăng cường thêm chuyến để phục vụ kịp thời người dân đi lại trong dịp Tết. Vào các ngày cao điểm, tại bến xe Giáp Bát dự kiến phục vụ 20 nghìn lượt khách/ngày, gấp 3,5 lần ngày thường dự kiến 850 - 900 lượt xe/ngày; bến xe Gia Lâm phục vụ 5.000 lượt khách/ngày, gấp 2,5 lần với 400 lượt xe/ngày; bến xe Mỹ Đình phục vụ 22 nghìn lượt khách/ngày, gấp hơn 3,5 lần với 950 lượt xe/ngày; tuyến tàu điện Cát Linh - Hà Đông duy trì chạy hàng ngày với tần suất 10 phút/chuyến. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam tiếp tục lập thêm 9 đôi tàu tuyến Bắc - Nam, 13 đôi tàu khu đoạn phục vụ các tuyến trung và ngắn như Sài Gòn - Đà Nẵng, Sài Gòn - Nha Trang, Hà Nội - Vinh, Hà Nội - Đà Nẵng, cung ứng khoảng 167 nghìn chỗ với 388 chuyến tàu phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân trong dịp tết Nguyên đán Ất Tỵ 2025. Ngoài ra, từ 28/01 đến 31/01/2025, các chuyến tàu bổ sung được triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu đi lại và du xuân của người dân, đặc biệt vào đêm giao thừa Tết Ất Tỵ (ngày 29 tháng Chạp) khởi hành 02 đoàn tàu mang tên Chuyến tàu Xuân với hành trình từ Hà Nội đến TP Hồ Chí Minh và ngược lại hứa hẹn nhiều trải nghiệm cho hành khách với thiết kế độc đáo, bên ngoài được trang trí bằng các tác phẩm nghệ thuật liên quan đến các hoạt động văn hóa dân gian trong dịp Tết như chợ hoa, viết thư pháp, bên trong toa xe được trang trí với biểu tượng hoa đào và hoa mai, đại diện cho Tết của hai miền Nam – Bắc. Để phục vụ khách hàng, Ngành đường sắt đã mở bán vé từ sớm, được đặt qua nhiều kênh trực tuyến như website chính thức, ứng dụng ví điện tử Momo, VNPay, ZaloPay và tổng đài bán vé. Các hãng hàng không (Vietnam Airlines; Pacific Airlines; Bamboo Airways; Vietjet Air, ...) đã bổ sung thêm nhiều chuyến bay từ Hà Nội đi các tỉnh, thành phố với nhiều khung giờ khác nhau, giá vé đa dạng và điều kiện hoàn, đổi vé linh hoạt góp phần giúp người dân thuận lợi, chủ động hơn trong những ngày cao điểm của dịp Tết. 5. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 01/2025 tăng 0,51% so với tháng trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI tăng, cao nhất là nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,74% (tác động làm tăng CPI chung 0,04%). Tiếp theo là nhóm giao thông tăng 0,73% (tác động làm tăng CPI chung 0,07%) do bình quân trong tháng giá xăng tăng 1,85%; giá dầu diezen tăng 4,99%. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,72% (tác động làm tăng CPI chung 0,15%) do sản lượng tiêu thụ điện, nước tăng dẫn đến giá bình quân tăng bên cạnh đó giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,19%. Tháng Một năm nay là thời điểm Tết Nguyên đán nên nhu cầu tiêu thụ lương thực, thực phẩm và ăn uống nhà hàng của người dân tăng cao, cụ thể: Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,57% (tác động làm tăng CPI chung 0,18%) trong đó ăn uống ngoài gia đình tăng 0,86%, thực phẩm tăng 0,48%, lương thực tăng 0,41%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,54% (tác động làm tăng CPI chung 0,01%). Các nhóm còn lại có chỉ số giá tăng nhẹ: May mặc, mũ nón, giầy dép tăng 0,34%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,31%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,06%; giáo dục tăng 0,04%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,64%. Riêng nhóm bưu chính, viễn thông giảm 0,07% so với tháng trước. Tháng Một năm nay CPI tăng 3,09% so với cùng kỳ năm trước. Các nhóm tác động nhiều đến CPI chung là: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 19,91% (tác động làm CPI tăng 1,02%); nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,37% (tác động làm CPI tăng 1,3%) do giá nước sạch tăng 11,94%; giá điện tăng 6,67%; giá nhà thuê tăng 6,75%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,27% (tác động làm CPI tăng 1,02%) do giá lương thực tăng 6,1% (trong đó giá gạo tăng 7,91%); thực phẩm tăng 2,26%; ăn uống ngoài gia đình tăng 4,9%; nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 3,87% (tác động làm CPI tăng 0,19%). Các nhóm có chỉ số giá tăng nhẹ tác động không nhiều đến CPI chung: Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,22%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,79%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,69%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,68% chủ yếu do giá vàng cao dẫn đến giá đồ trang sức tăng 34,01%, bên cạnh đó dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 29,98%. Cũng trong tháng Một năm nay có 3/11 nhóm hàng CPI giảm so với cùng kỳ: Nhóm giáo dục giảm 7,69%; bưu chính viễn thông giảm 1,06%; giao thông giảm 0,38%. Chỉ số giá vàng tháng 01/2025 tăng 0,97% so với tháng trước và tăng 34,18% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 01/2025 tăng 0,12% so với tháng trước và tăng 3,92% so với cùng kỳ. 6. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán 6.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tháng 01/2025 ước thực hiện 96,1 nghìn tỷ đồng, đạt 19% dự toán pháp lệnh năm và tăng 31,3% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Thu nội địa 93,8 nghìn tỷ đồng, đạt 19,8% và tăng 32,2%; thu từ dầu thô 0,4 nghìn tỷ đồng, đạt 8,3% và tăng 6,3%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 1,9 nghìn tỷ đồng, đạt 6,9% và tăng 1,1%.Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa tháng Một năm 2025: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 20,9 nghìn tỷ đồng, đạt 25,9% dự toán năm và tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2024; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 6 nghìn tỷ đồng, đạt 19,7% và tăng 1,1%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 22,4 nghìn tỷ đồng, đạt 21,8% và tăng 2,4%; thuế thu nhập cá nhân 5,8 nghìn tỷ đồng, đạt 11,6% và tăng 17,6%; thu tiền sử dụng đất 18,9 nghìn tỷ đồng, đạt 44,4% và gấp 13,4 lần cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 0,7 nghìn tỷ đồng, đạt 9% và giảm 1,3%; thu phí và lệ phí 2,1 nghìn tỷ đồng, đạt 9% và giảm 5,8%. Chi ngân sách địa phương tháng Một năm 2025 ước thực hiện 8,6 nghìn tỷ đồng, đạt 5,2% dự toán năm và tăng 4% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Chi đầu tư phát triển 1,2 nghìn tỷ đồng, đạt 1,4% và bằng 35,8%; chi thường xuyên 7,4 nghìn tỷ đồng, đạt 10,5% và tăng 49,1%. 6.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Tháng Một, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), mặt bằng lãi suất huy động giảm, chính sách lãi suất linh hoạt cho vay tín dụng. Thời điểm trong tháng 1/2025 lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước phổ biến ở mức 0,1 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 2 - 5,35%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 2,9 - 6,1%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 4,7 – 6,6%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,7 - 9%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,8%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Các NHTM trên địa bàn dành vốn tín dụng cho vay đối với các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các lĩnh vực ưu tiên, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn tín dụng, đồng thời triển khai các biện pháp hỗ trợ khách hàng. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 1/2025, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.872 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% so với thời điểm kết thúc năm 2024, trong đó tiền gửi đạt 5.197 nghìn tỷ đồng, tăng 0,56%; phát hành giấy tờ có giá đạt 675 nghìn tỷ đồng, tăng 0,04%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 1/2025, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.403 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với thời điểm kết thúc năm 2024, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 1.882 nghìn tỷ đồng, tăng 1,04%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.521 nghìn tỷ đồng, tăng 0,62%. Tính đến cuối tháng 1/2025, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,83% trong tổng dư nợ. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 12,57% trong tổng dư nợ; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,87%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,88%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,13%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,31%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,39%. 6.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết ngày 23/01/2025, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.199 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 310 doanh nghiệp và Upcom có 889 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 623,5 nghìn tỷ đồng, giữ nguyên so với cuối tháng trước và tăng 3,8% so với cuối tháng 01/2024, trong đó HNX đạt 159,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% và tăng 0,7%; Upcom đạt 464,3 nghìn tỷ đồng, giảm 0,1% và tăng 4,9%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch ngày 23/01/2025 đạt 1.895,6 nghìn tỷ đồng, giảm 3,6% so với cuối tháng trước và tăng 33,9% so với cuối tháng 01/2024, trong đó HNX đạt 349,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 13,6%; Upcom đạt 1.546,2 nghìn tỷ đồng, giảm 4,6% và tăng 39,5%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tính đến hết giao dịch ngày 23/01/2025, khối lượng trung bình 1 ngày/tháng đạt 48,4 triệu CP được chuyển nhượng, giảm 11% so với trung bình 1 ngày/tháng trước và giảm 33% so với trung bình 1 ngày/tháng cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 0,8 nghìn tỷ đồng, giảm 20,8% và giảm 43,7%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh trung bình 1 ngày/tháng đạt 41,1 triệu CP, giảm 12,8% và giảm 40,4%; giá trị đạt 0,7 nghìn tỷ đồng, giảm 21,9% và giảm 48,9%. Tính đến hết giao dịch ngày 23/01/2025, khối lượng giao dịch tháng Một đạt 773,6 triệu CP với giá trị chuyển nhượng đạt 12,3 nghìn tỷ đồng, giảm 51,3% khối lượng và giảm 59% giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng 12/2024, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 228 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 29 mã giao dịch; cá nhân 199 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới cả năm 2024 đạt 1.706 nghìn tài khoản. 7. Một số vấn đề xã hội 7.1. Công tác chuẩn bị Tết Nguyên đán phục vụ người dân và du khách Ngay từ đầu tháng Một, Thành phố tập trung chỉ đạo thực hiện công tác chuẩn bị Tết Nguyên đán Ất Tỵ tạo không khí đón Xuân mới vui tươi, lành mạnh, an toàn, tiết kiệm với phương châm “Mọi người, mọi nhà đều có Tết”. Thực hiện trang trí hoa, cây cảnh trên các khu vực trung tâm Thành phố, đảm bảo công tác vệ sinh môi trường xanh, sạch, đẹp trên địa bàn, thu gom rác, phế thải tồn đọng tại khu dân cư, đường phố, thôn xóm và các điểm công cộng. Tổ chức triển khai thực hiện tốt các hoạt động tuyên truyền cổ động trực quan, văn hóa, nghệ thuật, thể dục thể thao Kỷ niệm 95 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, mừng Xuân Ất Tỵ 2025 tại các tuyến phố trung tâm, trụ sở cơ quan với 24 cờ Quốc kỳ, Đảng kỳ khổ lớn, 3 nghìn cờ Quốc kỳ, Đảng kỳ trên hệ thống giá treo tại các tuyến phố chính, khu vực trung tâm Thành phố và 08 cụm cờ tại khu vực quảng trường Ba Đình, khu vực quận Hoàn Kiếm, 47 màn hình led, gần 1,7 nghìn băng rôn dọc và 200 pano có khung sắt di động tại các tuyến phố trung tâm... Tăng cường kiểm tra, giám sát việc tổ chức các hoạt động văn hóa, du lịch, lễ hội trong dịp Tết. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin công cộng với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, giới thiệu những thành tựu kinh tế - xã hội, các sự kiện nổi bật của Thành phố năm 2024 và nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm 2025 tạo sự đồng thuận trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và Thành phố. Trong dịp Tết Nguyên đán, Thành phố tổ chức nhiều hoạt động văn hóa du lịch đặc sắc phục vụ nhân dân như: Chương trình Chào năm mới 2025 trong khuôn khổ Lễ hội Ánh sáng Quốc tế Hà Nội tại quận Tây Hồ ngày 18/01/2025, tổ chức Chương trình “Xuân Quê hương” tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia vào ngày 19/01/2025; Chương trình "Sắc Xuân Ất Tỵ 2025" tại Trung tâm Thông tin Văn hóa Hồ Gươm; Chương trình "Tết Việt - Tết phố 2025" với chuỗi hoạt động đa dạng, đậm đà bản sắc văn hóa truyền thống tại Không gian bích họa phố Phùng Hưng. Đặc biệt, năm nay Hà Nội tổ chức 30 điểm bắn pháo hoa với 10 trận địa pháo hoa tầm cao và 21 trận địa pháo hoa tầm thấp tại 30 quận, huyện, thị xã trên địa bàn Thủ đô vào đêm giao thừa Xuân Ất Tỵ. Các di tích mở cửa đón khách tham quan, du lịch và Nhân dân Thủ đô tất cả các ngày trong dịp Tết cụ thể: Khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám: Tổ chức phục vụ du khách trải nghiệm chương trình đêm Văn Miếu – Quốc Tử Giám; các hoạt động trưng bày triển lãm, các trò chơi dân gian, hội chữ Xuân phục vụ Nhân dân và khách tham quan du lịch trong nước và quốc tế; các hoạt động dâng hương của các đoàn ngoại giao, Lãnh đạo Trung ương, Lãnh đạo Thành phố và Nhân dân, khách tham quan, du lịch. Khu di tích Đền Ngọc Sơn: Tổ chức Chương trình nghệ thuật “Ngọc Sơn đêm huyền bí”; các hoạt động dâng hương của Lãnh đạo Trung ương, Lãnh đạo Thành phố, các đoàn ngoại giao và Nhân dân, khách tham quan, du lịch. Khu di tích Nhà tù Hỏa Lò: Tổ chức Chương trình tham quan trải nghiệm Đêm thiêng liêng với chủ đề “Sống như những đóa hoa”, “Lửa thanh xuân”; tổ chức gặp mặt nhân chứng lịch sử; các hoạt động trưng bày chuyên đề; hoạt động dâng hương của các cấp Lãnh đạo, các đoàn ngoại giao và Nhân dân, khách tham quan, du lịch. Bảo tàng Hà Nội: Tổ chức các hoạt động triển lãm, trưng bày chuyên đề, các hoạt động giáo dục truyền thống, tổ chức các hoạt động hội thảo, tọa đàm theo chuyên đề, sự kiện lịch sử, văn hóa phục vụ Nhân dân và khách tham quan. Bên cạnh đó, Thành phố tăng cường bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cho nhân dân vui Tết. Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm, các địa điểm lễ hội, vui chơi giải trí, những nơi tập trung đông người. Phát động đợt cao điểm ra quân tập trung phòng, chống tội phạm và xử lý nghiêm các trường hợp vận chuyển, tàng trữ, buôn bán, đốt pháo nổ trái phép. Tăng cường kiểm tra, chấn chỉnh công tác phòng cháy chữa cháy. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm dịp Tết cũng được đặc biệt quan tâm. Thành phố đẩy mạnh các biện pháp kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tăng cường lực lượng phục vụ thủ tục hải quan, thông quan hàng hóa, phối hợp các ngành liên quan tăng cường kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, đảm bảo an ninh, an toàn tuyệt đối, thuận lợi cho khách quốc tế, Việt kiều đến sân bay Nội Bài trong dịp Tết Nguyên đán, chống buôn lậu và gian lận thương mại, phối hợp phòng chống lây lan dịch bệnh từ khách quốc tế vào nội địa thông qua cảng hàng không. 7.2. Giải quyết việc làm và bảo đảm an sinh xã hội Giải quyết việc làm: Tháng Một, Thành phố đã giải quyết việc làm cho gần 13,8 nghìn người, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm 2024 (trong đó Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho đối tượng nghèo, đối tượng chính sách xã hội vay với tổng số tiền là 219,7 tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho gần 4,2 nghìn người). Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tổ chức thành công 20 phiên giao dịch việc làm với 498 đơn vị, doanh nghiệp tham gia, kết quả có 1.053 người được tuyển dụng sau khi kết thúc phiên giao dịch. Cũng trong tháng Một, Thành phố ra quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho gần 3,8 nghìn người với số tiền hỗ trợ 108,2 tỷ đồng, tư vấn giới thiệu việc làm cho 3,7 nghìn người; hỗ trợ học nghề cho 36 người, số tiền hỗ trợ học nghề là 158,4 triệu đồng. Bảo đảm an sinh xã hội: Trong tháng, Thành phố tập trung rà soát tình hình đời sống của các đối tượng chính sách, người có hoàn cảnh khó khăn, thực hiện hỗ trợ Tết Nguyên đán, không để người dân bị thiếu đói, đảm bảo mọi người dân được vui Tết, đón Xuân an toàn, no ấm. Thành phố thực hiện tốt việc chăm lo, thăm hỏi, chúc Tết các đối tượng chính sách, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cán bộ lão thành cách mạng...; tổ chức tốt thăm hỏi, tặng quà cho người già cô đơn, trẻ em mồ côi, người khuyết tật được nuôi dưỡng tại các cơ sở trợ giúp xã hội. Đến ngày 23/01/2025 Thành phố Hà Nội trao tặng hơn 2.271 nghìn suất quà (tăng 2,3% so với kết quả quà tặng Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024) cho các đối tượng chính sách ưu đãi người có công; người nghèo, đối tượng bảo trợ xã hội; người cao tuổi; cán bộ nghỉ hưu, mất sức, người lao động có hoàn cảnh khó khăn; các tổ chức, gia đình, cá nhân tiêu biểu; trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt với tổng kinh phí 1.067 tỷ đồng, tăng 3,2%. Tại các Khu công nghiệp và chế xuất (KCN &CX) trên địa bàn Thành phố, các Cấp Công đoàn đã tổ chức Chương trình “Tết sum vầy - Xuân ơn Đảng” và “Chợ Tết Công đoàn” năm 2025 với mục tiêu tất cả đoàn viên, công nhân lao động đều có Tết; thực hiện các chế độ lương thưởng, hỗ trợ công nhân về quê ăn Tết được kịp thời, đầy đủ; Công đoàn KCN &CX đã hỗ trợ hơn 13 nghìn đoàn viên, công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn, mỗi suất 500 nghìn đồng; Liên đoàn lao động Thành phố đã hỗ trợ 5.000 đoàn viên, công nhân lao động có hoàn cảnh khó khăn mỗi suất 1 triệu đồng; tổ chức xe ô tô miễn phí cho 1.200 đoàn viên, công nhân lao động hoàn cảnh đặc biệt khó khăn về quê đón Tết; tặng 3 nhà mái ấm Công đoàn với số tiền 110 triệu đồng… Ước tính ban đầu tổng kinh phí các cấp Công đoàn Thủ đô tặng quà, hỗ trợ cho đoàn viên, người lao động Thủ đô đợt Tết Nguyên đán Ất Tỵ trên 70 tỷ đồng (tương đương 12% số đoàn viên, người lao động) tăng 2% so với năm 2024, trong đó cấp Thành phố hỗ trợ hơn 43 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Công đoàn thành phố Hà Nội và kinh phí UBND thành phố Hà Nội. 7.3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội Năm 2025, theo kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 95,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 47,5% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 3,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 45% lực lượng lao động. Tính đến hết tháng 01/2025, tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế của Thành phố đạt 95,25% dân số với 8.173 nghìn người tham gia, tăng 0,04% so với cuối năm 2024 và tăng 3,49% so với cùng thời điểm năm 2024; có 2.179 nghìn người tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc (chiếm 46,38% lực lượng trong độ tuổi lao động), tăng 0,47% so với thời điểm 31/12/2024 và tăng 5,08% so với cùng kỳ năm trước; gần 105 nghìn người tham gia Bảo hiểm xã hội tự nguyện (chiếm 2,93%), tăng 0,57% và tăng 26,71%; gần 2.111 nghìn người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (chiếm 44,92%), tăng 0,48% và tăng 5,18%. Tính đến cuối tháng Một năm 2025, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 4.500 tỷ đồng, tăng 3,79% so với cùng kỳ năm 2024. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 6.679 tỷ đồng, tăng 6,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chi lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng là 4.025 tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 2.031 tỷ đồng. 7.4. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Trong tháng Một, Công an thành phố Hà Nội đã tổ chức triển khai và ra quân đợt cao điểm để chủ động phòng ngừa, tấn công trấn áp tội phạm, giữ gìn trật tự xã hội, bảo đảm an ninh, phục vụ nhân dân vui Xuân, đón Tết Nguyên đán an toàn, lành mạnh, tiết kiệm. Trong dịp Tết, Công an Thành phố chủ động triển khai 100% lực lượng Cảnh sát giao thông, Cảnh sát trật tự phối hợp với Công an các quận, huyện, thị xã tập trung điều hành, hướng dẫn giao thông tại các nút giao thông trọng điểm; bố trí các tổ tuần tra kiểm soát để xử lý các vi phạm, phòng chống ùn tắc giao thông cục bộ các ngày trước, trong dịp Tết Nguyên đán, không để xảy ra tình trạng ùn tắc kéo dài tại các tuyến đường cửa ngõ vào Thành phố phục vụ người dân đi lại thuận tiện, thông suốt; tăng cường xử lý các hành vi vi phạm là nguyên nhân dẫn đến ùn tắc và tai nạn giao thông, đặc biệt là các trường hợp vi phạm nồng độ cồn. Tăng cường tuần tra, kiểm soát phòng chống đua xe và cổ vũ đua xe trái phép nhất là thời điểm trước, trong và sau Giao thừa. Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Một (từ 15/12/2024 đến 14/01/2025) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng đã phát hiện 714 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 427 vụ do công an khám phá được; số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 755 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 894 vụ tội phạm vi phạm pháp luật kinh tế với 959 đối tượng phạm pháp, thu nộp ngân sách 28,6 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng 01/2025 đã phát hiện 132 vụ cờ bạc, bắt giữ 577 đối. Tổng số vụ tội phạm và vi phạm pháp luật về ma tuý bị phát hiện là 727 vụ, bắt giữ 1.100 đối tượng. Trong đó, xử lý hình sự 710 vụ với 1.002 đối tượng. Tai nạn giao thông: Trong 06 ngày Tết Nguyên đán, từ ngày 25/01/2025 đến ngày 30/01/2025, trên địa bàn Thành phố xảy ra 12 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 5 người chết, 11 người bị thương (giảm 10 vụ, giảm 6 người chết, giảm 8 người bị thương so với cùng kỳ Tết Nguyên đán năm 2024; giảm 7 vụ, giảm 6 người chết, tăng 1 người bị thương so với 6 ngày liền kề trước đó). Tính chung tháng Một (từ ngày 15/12/2024 đến ngày 14/01/2025) trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 118 vụ tai nạn giao thông làm 63 người chết và 83 người bị thương. Trong đó 116 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 61 người chết và 83 người bị thương; 2 vụ tai nạn đường sắt làm chết 2 người. Chia theo mức độ nghiêm trọng có 1 vụ đặc biệt nghiêm trọng làm 3 người chết; 3 vụ tai nạn rất nghiêm trọng làm chết 6 người; 60 vụ tai nạn nghiêm trọng làm chết 54 người và bị thương 16 người; 54 vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm làm 67 người bị thương. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng, phát hiện 1.671 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 1.681 đối tượng; số vụ vi phạm về bảo vệ môi trường bị xử lý là 1.599 vụ với 1.603 đối tượng; thu nộp ngân sách 5,9 tỷ đồng. Cũng trong tháng Một, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 144 vụ cháy không gây thiệt hại về người, trong đó có 32 vụ cháy trung bình, 112 vụ cháy nhỏ. Thiệt hại về tài sản ước tính giá trị ban đầu trên 1,1 tỷ đồng, các cơ quan chức năng đang tiếp tục xác định thiệt hại về tài sản do các vụ cháy gây ra./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2024
- 03/01/2025 16:59
Năm 2024, nền kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt nhiều thử thách, trong bối cảnh xung đột vũ trang kéo dài và xu hướng lan rộng ở nhiều điểm nóng, cạnh tranh chiến lược ngày càng gay gắt; giá xăng dầu, hàng hóa cơ bản, cước vận tải biến động mạnh; kinh tế, thương mại phục hồi chậm, thiếu vững chắc; tổng đầu tư toàn cầu sụt giảm; tỷ giá, lãi suất biến động khó lường; thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng, lương thực, an ninh mạng vẫn tiềm ẩn nhiều nguy cơ, thách thức, tác động đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Ở Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhất là hiện tượng thời tiết cực đoan gia tăng về cường độ nhưng với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện linh hoạt, hiệu quả trước những tác động bên ngoài đồng thời chỉ đạo, điều hành giải quyết những vấn đề đột xuất phát sinh, ứng phó khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (Yagi) gây ra. Trước tình hình đó, Thành phố đã bám sát, quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm các chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; các Nghị quyết, Chỉ thị, Kết luận của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; của Thành ủy, HĐND và UBND Thành phố với tinh thần nghiêm túc, trách nhiệm, kỷ cương; chủ động, kịp thời, quyết tâm đổi mới sáng tạo mạnh mẽ trong điều hành nhất là tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành và địa phương thực hiện hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp, thúc đẩy tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nhờ đó, kinh tế Thành phố tiếp tục duy trì tăng trưởng, an sinh xã hội được đảm bảo. Kết quả cụ thể các ngành, lĩnh vực quý IV và năm 2024 như sau: I. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1. Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý IV ước tính tăng 7,01% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,21%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,99%; khu vực dịch vụ tăng 7,41%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,97%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục duy trì phát triển, ước tính giá trị tăng thêm quý IV tăng 3,21% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,06 điểm % vào mức tăng GRDP chung của Thành phố trong quý IV/2024. Khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính quý IV năm nay tăng 6,99% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,78 điểm % vào mức tăng GRDP chung của Thành phố, trong đó ngành công nghiệp tăng 7,08%, đóng góp 1,02 điểm %; ngành xây dựng tăng 6,87%, đóng góp 0,76 điểm %. Khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá 7,41% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 4,72 điểm % vào mức tăng GRDP quý IV/2024, trong đó một số ngành, lĩnh vực tăng cao, đóng góp nhiều vào tăng trưởng chung của Thành phố: Thông tin, truyền thông tăng 7,26%, đóng góp 1,02 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 8,27%, đóng góp 0,80 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,78 điểm %; vận tải, kho bãi tăng 7,91%, đóng góp 0,56 điểm %; hoạt động chuyên môn khoa học, công nghệ tăng 6,47%, đóng góp 0,43 điểm %; hành chính và dịch vụ hỗ trợ (bao gồm lĩnh vực du lịch, lữ hành) tăng 10,81%, đóng góp 0,33 điểm %; kinh doanh bất động sản tăng 5,84%, đóng góp 0,24 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 7,4%, đóng góp 0,17 điểm %; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 7,91%, đóng góp 0,15 điểm %; quản lý Nhà nước tăng 6,77%, đóng góp 0,11 điểm %. Các ngành dịch vụ còn lại tiếp tục duy trì tăng trưởng: Nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 10,48% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ làm thuê các công việc trong hộ gia đình tăng 8,89%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 7,09%; dịch vụ khác tăng 2,66%. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm quý IV ước tính tăng 4,97%, đóng góp 0,44 điểm % vào mức tăng trưởng GRDP chung của Thành phố. Tính chung năm 2024, GRDP của Thành phố ước tính tăng 6,52% so với năm trước (quý I tăng 5,41%; quý II tăng 6,80%; quý III tăng 6,71%; quý IV tăng 7,01%). Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến xung đột quân sự leo thang kéo dài tại một số quốc gia, khu vực, sự cạnh tranh giữa các nước lớn ngày càng gay gắt... đã ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế, thương mại, gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu, khiến kinh tế toàn cầu tăng trưởng chậm lại. Nhiều nước gia tăng các hàng rào kỹ thuật, biện pháp bảo hộ thương mại, áp đặt các tiêu chuẩn mới đối với xuất, nhập khẩu; nhiều doanh nghiệp lớn, đối tác thương mại, đầu tư chủ yếu trong chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố phục hồi chậm, tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ. Bên cạnh đó, thiên tai, biến đổi khí hậu tiếp tục khó lường, nhất là tác động của bão số 3 (Yagi) đã gây thiệt hại tới sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân. Nhờ sự vào cuộc của các ngành chức năng, chính quyền Thành phố và thích ứng nhanh của các doanh nghiệp, kinh tế Thủ đô đạt mức tăng trưởng 6,52%, quy mô gần 59 tỷ USD, lớn thứ 2 cả nước là kết quả khá tích cực và đáng ghi nhận. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2024 ước tính tăng 2,52% so với năm 2023, đóng góp 0,05 điểm % vào mức tăng GRDP. Mức tăng năm nay thấp hơn mức tăng năm ngoái (năm 2023 tăng 2,73%) do điều kiện thời tiết trong năm không thuận lợi, đặc biệt cơn bão số 3 đã gây thiệt hại nặng nề cho lúa và cây trồng vụ Mùa. Tuy nhiên với tinh thần chủ động kịp thời, nỗ lực vượt khó, nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai ngành Nông nghiệp đã đạt được những kết quả nhất định. Chăn nuôi phát triển cả về năng suất và chất lượng; dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm được phát hiện, xử lý, khống chế kịp thời; sản lượng thịt xuất chuồng tăng so với năm trước, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm và an sinh xã hội. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng năm 2024 tăng 3,5%; thịt trâu tăng 2%; thịt gia cầm tăng 3,7% (thịt gà tăng 4,1%); trứng gia cầm tăng 5,1%; sản lượng sữa bò tăng 1,9%. Hoạt động nuôi trồng thủy sản tiếp tục được duy trì với tổng sản lượng thủy sản cả năm ước tăng 3,7%. Khu vực công nghiệp và xây dựng năm 2024 ước tính tăng 6,21% so với năm trước, đóng góp 1,34 điểm % vào mức tăng GRDP. Mức tăng năm nay cao hơn mức tăng 5,05% của năm trước ghi nhận những nỗ lực phục hồi tích cực của các doanh nghiệp cùng sự vào cuộc kịp thời của chính quyền Thành phố trong việc rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi; tiết giảm chi phí hoạt động để duy trì ổn định mặt bằng lãi suất cho vay nhằm hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi và phát triển sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, các Khu công nghiệp, khu chế xuất trên địa bàn cũng tích cực hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và giải quyết nhanh thủ tục hành chính cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp triển khai dự án, mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng vốn đầu tư, thực hiện thủ tục điều chỉnh bổ sung mục tiêu, điều chỉnh tiến độ thực hiện dự án… Nhờ vậy, nhiều doanh nghiệp đã vượt qua giai đoạn khó khăn, duy trì ổn định sản xuất và ký kết được thêm các đơn hàng mới, tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động; góp phần thúc đẩy phát triển Thủ đô. Ước tính giá trị tăng thêm ngành công nghiệp năm 2024 tăng 6,2%, đóng góp 0,82 điểm % vào mức tăng chung (ngành chế biến, chế tạo tăng 5,82%; sản xuất phân phối điện tăng 9,48%; cung cấp nước và quản lý, xử lý, nước thải tăng 10,32%). Ngành xây dựng năm nay ước tăng 6,21%, đóng góp 0,52 điểm % vào mức tăng GRDP. Khu vực dịch vụ tiếp tục khẳng định là trụ đỡ của nền kinh tế với mức tăng cả năm đạt 7,14%, đóng góp 4,72 điểm % vào mức tăng GRDP chung toàn Thành phố, trong đó một số ngành tăng trưởng khá, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng GRDP: Thông tin, truyền thông tăng 6,12%, đóng góp 0,91 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 8,58%, đóng góp 0,85 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,15%, đóng góp 0,76 điểm %; hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 16,24%, đóng góp 0,55 điểm %; vận tải, kho bãi tăng 6,2%, đóng góp 0,49 điểm %; hoạt động chuyên môn khoa học, công nghệ tăng 6,48%, đóng góp 0,41 điểm %. Các ngành dịch vụ còn lại duy trì tăng trưởng: Dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 7,8%; dịch vụ làm thuê các công việc trong hộ gia đình tăng 7,16%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 7,05%; giáo dục và đào tạo tăng 6,87%; quản lý Nhà nước tăng 6,37%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 4,7%; kinh doanh bất động sản tăng 4,21%; dịch vụ khác tăng 2,23%. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm năm 2024 ước tăng 4,0% so với năm trước, đóng góp 0,41 điểm % vào mức tăng GRDP chung của Thành phố. GRDP bình quân đầu người năm 2024 theo giá hiện hành đạt 163,5 triệu đồng, tăng 8,8% so với năm 2023. Cơ cấu GRDP năm 2024: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 1,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22,79%; khu vực dịch vụ chiếm 65,6%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,65% (cơ cấu GRDP năm 2023 tương ứng là: 1,98%; 23,17%; 64,89% và 9,96%). 2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản Năm 2024, ngành Nông nghiệp gặp nhiều khó khăn, đặc biệt cơn bão số 3 đã gây thiệt hại nặng nề cho lúa và cây trồng vụ Mùa. Tuy nhiên với tinh thần chủ động kịp thời, nỗ lực vượt khó, nhanh chóng khắc phục hậu quả thiên tai ngành Nông nghiệp đã đạt được những kết quả nhất định. Chăn nuôi phát triển cả về năng suất và chất lượng; bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm và an sinh xã hội. Hoạt động nuôi trồng thủy sản tiếp tục được duy trì. 2.1. Nông nghiệp Sản xuất lúa: Diện tích gieo trồng lúa năm 2024 trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 153 nghìn ha, bằng 98,7% năm trước, trong đó lúa Xuân 81 nghìn ha, bằng 98,1%; lúa Mùa 72 nghìn ha, bằng 99,3%. Diện tích lúa năm nay giảm do một số địa phương tiếp tục chuyển đổi sang đất phi nông nghiệp và sang các mô hình sản xuất khác mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn như trồng cây hàng năm, cây lâu năm, nuôi trồng thủy sản... Năng suất lúa cả năm ước đạt 56,4 tạ/ha, bằng 93,1% so với năm 2023 (lúa Xuân đạt 62,8 tạ/ha, tăng 0,1%; lúa Mùa đạt 49,2 tạ/ha, bằng 84,6%). Sản lượng lúa cả năm ước đạt 862,6 nghìn tấn, bằng 91,8% sản lượng năm 2023 (lúa Xuân đạt 508,7 nghìn tấn, bằng 98,2%; lúa Mùa đạt 353,9 nghìn tấn, bằng 84%) chủ yếu do diện tích gieo trồng giảm và do tác động của cơn bão số 3 (YAGI) hồi đầu tháng 9/2024 gây mưa ngập ảnh hưởng nặng nề đến năng suất và sản lượng cây lúa vụ Mùa. Cây hàng năm khác: Năm 2024, diện tích trồng ngô ước đạt 12,1 nghìn ha, bằng 99,5% năm 2023; năng suất đạt 49,8 tạ/ha, bằng 94,2%; sản lượng đạt 60,3 nghìn tấn, bằng 93,8%. Cây khoai lang: Diện tích ước đạt 1,3 nghìn ha, bằng 99,7%; năng suất 95 tạ/ha, tăng 3%; sản lượng 12,5 nghìn tấn, tăng 2,8%. Cây đậu tương: Diện tích ước đạt 1,2 nghìn ha, bằng 99,4%; năng suất 18 tạ/ha, tăng 0,5%; sản lượng 2,2 nghìn tấn, bằng 99,9%. Cây lạc: Diện tích ước đạt 2,1 nghìn ha, bằng 93,8%; năng suất 23 tạ/ha, bằng 98,4%; sản lượng 4,8 nghìn tấn, bằng 92,3%. Cây rau: Diện tích ước đạt 34 nghìn ha, bằng 98,2%; năng suất 219,4 tạ/ha, bằng 99,4%; sản lượng 745 nghìn tấn, bằng 97,6%. Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm ước đạt 22,9 nghìn ha, bằng 96,1% năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả đạt 19,4 nghìn ha, bằng 96,4%; cây lấy quả chứa dầu 24 ha, tăng 8,8%; cây chè 1,9 nghìn ha, bằng 94,6%; cây gia vị, dược liệu 227 ha, bằng 94,2%; cây lâu năm khác 1,4 nghìn ha, bằng 94,4%. Nhìn chung, sản xuất cây ăn quả trên địa bàn Thành phố năm 2024 gặp nhiều khó khăn, trong đó ảnh hưởng của cơn bão số 3 làm giảm diện tích cây trồng hiện có và giảm diện tích cây cho sản phẩm dẫn đến giảm sản lượng thu hoạch vào những tháng cuối năm như chuối, đu đủ, ổi, bưởi và nhóm cây cảnh lâu năm...; bên cạnh đó, thời tiết có mưa phùn, lạnh ẩm không thuận lợi cho nhóm cây xoài, nhãn, vải trong quá trình cây ra hoa, đậu quả làm sản lượng thu hoạch của nhóm cây này giảm mạnh: Diện tích cây xoài hiện có 413 ha, bằng 99,9% năm 2023; sản lượng ước đạt 2,2 nghìn tấn, bằng 55,8%. Mít 1,1 ngìn ha, tăng 1%; sản lượng 14 nghìn tấn, tăng 4,7%. Ổi 2,2 nghìn ha, tăng 2%; sản lượng 33,4 nghìn tấn, bằng 98,8%. Bưởi 7,5 nghìn ha, bằng 97,3%; sản lượng 115,2 nghìn tấn, bằng 98,9%; … Tiến độ gieo trồng cây vụ Đông: Tính đến cuối tháng Mười Hai, toàn Thành phố đã trồng được 5,6 nghìn ha ngô, bằng 101% cùng kỳ năm trước; 796 ha khoai lang, bằng 89,2%; 679 ha đậu tương, bằng 94,2%; 172 ha lạc, bằng 76,4%; 14,6 nghìn ha rau, tăng 1,4%. Hiện nay, thời tiết tương đối thuận lợi tạo điều kiện cho cây màu sinh trưởng và phát triển; cây rau vụ Đông bắt đầu vào giai đoạn thu hoạch. Chăn nuôi: Năm 2024, hoạt động chăn nuôi phát triển ổn định; dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm cơ bản được kiểm soát tốt; tổng đàn vật nuôi giữ ổn định, các cơ sở, trang trại bám sát diễn biến của thị trường nên có kế hoạch chăn nuôi phù hợp, đáp ứng tốt nhu cầu thực phẩm của người dân Thủ đô. Đàn trâu hiện có 29,6 nghìn con, tăng 1,4% so với năm 2023; đàn bò 124 nghìn con, giảm 2,4%; đàn lợn 1,5 triệu con, tăng 1,7%; đàn gia cầm 42,3 triệu con, tăng 1,9% (trong đó đàn gà 28,4 triệu con, tăng 1,9%). Tính chung cả năm 2024, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 2,1 nghìn tấn, tăng 2% so với năm 2023; thịt bò 10,6 nghìn tấn, giảm 0,1%; sản lượng sữa bò 44,9 nghìn tấn, tăng 1,9%; thịt lợn 262,4 nghìn tấn, tăng 3,5%; thịt gia cầm 168,3 nghìn tấn, tăng 3,7% (trong đó thịt gà 126,5 nghìn tấn, tăng 4,1%); trứng gia cầm 2.965 triệu quả, tăng 5,1%. 2.2. Lâm nghiệp và thủy sản Lâm nghiệp: Trong tháng Mười Hai, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,2 nghìn m3, giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi khai thác đạt 77 ste, tăng 4,1%. Tính chung năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 119 ha, giảm 2,5% so với năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 630 nghìn cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ đạt 22,9 nghìn m3, giảm 4%; sản lượng củi đạt 832 ste, tăng 3,7%. Năm 2024, thành phố Hà Nội có 20,3 nghìn ha đất lâm nghiệp có rừng, chiếm 6,1% tổng diện tích đất toàn Thành phố, phân bố chủ yếu ở huyện Sóc Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, Chương Mỹ, Quốc Oai, Thạch Thất. Trong năm, trên địa bàn Thành phố xảy ra 9 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 9,7 ha, chủ yếu là cháy thảm thực bì, không gây thiệt hại lớn đến tài nguyên rừng. Thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2024 ước đạt 24 nghìn ha (chủ yếu là diện tích nuôi cá), tăng 2,1% so với năm trước. Trong thời gian qua một số địa phương tiếp tục chuyển đổi những diện tích trồng cây hàng năm không hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản theo hướng phát triển bền vững, thân thiện với môi trường sinh thái và thích ứng biến đổi khí hậu. Các mô hình nuôi trồng hữu cơ và áp dụng tiêu chuẩn GAP được khuyến khích nhằm nâng cao giá trị sản phẩm, năng suất, chất lượng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Bên cạnh đó, tiếp tục xây dựng các vùng nuôi trồng thủy sản theo hướng tập trung công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, nuôi thâm canh nhằm khai thác tiềm năng, lợi thế diện tích mặt nước. Sản lượng thủy sản tháng Mười Hai ước đạt 16,7 nghìn tấn (chủ yếu là sản lượng cá), tăng 3,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 16,7 nghìn tấn, tăng 3,8%; thủy sản khai thác 67 tấn, giảm 1,5%. Tính chung cả năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước tính đạt 132,3 nghìn tấn, tăng 3,7%, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 130,7 nghìn tấn, tăng 3,8%; thủy sản khai thác đạt 1.675 tấn, giảm 0,6%. 3. Sản xuất công nghiệp Hoạt động sản xuất công nghiệp năm 2024 có xu hướng phục hồi tích cực quý sau cao hơn quý trước, 4/4 ngành công nghiệp cấp 1 tăng so với năm trước, nhiều đơn hàng công nghiệp xuất khẩu chủ lực tăng khá. Tính chung cả năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,9% so với năm 2023, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,4%; chỉ số tiêu thụ tăng 8,2%; chỉ số tồn kho cuối năm 2024 giảm 11,5% so với cuối năm 2023. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Mười Hai ước tính tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 7,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,6% và tăng 7,2%; sản xuất và phân phối điện giảm 6,3% và tăng 7,6%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải giảm 0,4% và tăng 8,4%; ngành khai khoáng tăng 0,4% và giảm 0,9%. Ước tính quý IV/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 7,0%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,6%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 9,9%; khai khoáng tăng 0,7%. Một số ngành IIP quý IV tăng khá so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 35,5%; sản xuất phương tiện vận tải tăng 14,5%; sản xuất xe có động cơ tăng 14,3%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 12,7%; dệt tăng 8,8%. Hai ngành IIP giảm so với cùng kỳ: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 1,5%; in, sao chụp bản ghi giảm 0,6%. Tính chung cả năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,9% so với năm 2023, trong đó: Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,3%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 10,6%; khai khoáng tăng 0,5%. Trong năm nay, một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP tăng khá so với năm trước: Sản xuất máy móc thiết bị tăng 27,4%; sản xuất trang phục tăng 9,5%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 8,9%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,2%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 8%. Tuy nhiên, một số ngành chế biến, chế tạo chỉ số IIP giảm so với năm trước: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 3,9%; sản xuất da và sản phẩm liên quan giảm 0,7%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc giảm 0,1%. Chỉ số tiêu thụ sản phẩm toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Mười Hai tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024 chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 8,2% so với năm 2023, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng: Máy móc, thiết bị tăng 30%; dệt tăng 29,3%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 18,7%; sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 9,2%; xe có động cơ tăng 8,2%; sản phẩm từ cao su và plastic tăng 8,2%; trang phục tăng 6,4%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm: Gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 31,8%; da và sản phẩm liên quan giảm 20,5%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 7,9%; giấy và sản phẩm từ giấy giảm 1,7%. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo thời điểm cuối năm 2024 giảm 11,5% so với cuối năm 2023, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm: In, sao chép bản ghi giảm 51,7%; da và sản phẩm liên quan giảm 49,8%; đồ uống giảm 40,5%; thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 39,3%; dệt giảm 36,2%. Một số ngành công nghiệp có chỉ số tồn kho tăng: Sản phẩm từ kim loại tăng 17,8%; thuốc lá tăng 14,7%; sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 11,7%; giường, tủ, bàn, ghế tăng 9,8%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng 12/2024 ước tính tăng 0,5% so với cuối tháng trước và tăng 1,6% so với cùng thời điểm năm 2023. Tính chung cả năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 0,6% so với năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực Nhà nước tăng 1,5%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 4,2%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,3%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 0,9% so với năm trước; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành khai khoáng tăng 15,8%. 4. Đầu tư và xây dựng Năm 2024, Thành phố tập trung chỉ đạo, đôn đốc chủ đầu tư và đơn vị thi công tăng cường nguồn lực, khẩn trương đẩy nhanh tiến độ, hoàn thiện các công trình, dự án trọng điểm kịp chào mừng Kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Tính chung năm nay, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn ước tăng 10,5% so với năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tăng 38,7%; thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2,2 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2023, đứng thứ 5 cả nước về thu hút vốn FDI. 4.1. Đầu tư phát triển Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố quý IV/2024 ước tính đạt 196,3 nghìn tỷ đồng, tăng 35,8% so với quý trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn Nhà nước đạt 79,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 40,3% tổng vốn đầu tư, tăng 49% và tăng 18,8%; vốn ngoài nhà nước đạt 105,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 53,6%, tăng 27,2% và tăng 7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 12 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,1%, tăng 37,5% và tăng 9,7%. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý IV ước tính đạt 129,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 65,7% tổng vốn đầu tư, tăng 41,4% so với quý trước và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2023; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 46,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 23,8%, tăng 26,2% và tăng 9,5%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 11,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,7%, tăng 36,9% và tăng 7,2%; bổ sung vốn lưu động đạt 7,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,7%, tăng 11,4% và tăng 8,9%; vốn đầu tư khác đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,1%, tăng 32,2% và tăng 3,5%. Tính chung cả năm 2024, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố đạt 548,7 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2023. Trong đó, vốn Nhà nước 208,6 nghìn tỷ đồng, tăng 17,8%; vốn ngoài nhà nước 305 nghìn tỷ đồng, tăng 6,3%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài 35,1 nghìn tỷ đồng, tăng 8,1%. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 349,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,6% tổng vốn đầu tư và tăng 12,3% so với năm trước; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 140,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7% và tăng 7,9%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 29,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,3% và tăng 6,6%; bổ sung vốn lưu động đạt 22,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,2% và tăng 7,9%; vốn đầu tư khác đạt 6,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,2% và tăng 3,5%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Mười Hai ước tính đạt 9.823 tỷ đồng, tăng 8,3% so với thực hiện tháng trước và tăng 39,9% so với cùng kỳ năm 2023. Ước tính quý IV năm nay, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 26,9 nghìn tỷ đồng, tăng 27,6% so với thực hiện quý trước và tăng 45,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 10,9 nghìn tỷ đồng, tăng 38,9% và tăng 34,4%; NSNN cấp huyện 14,7 nghìn tỷ đồng, tăng 19,4% và tăng 48,6%; NSNN cấp xã 1,3 nghìn tỷ đồng, tăng 41,8% và gấp 2,4 lần cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 72,3 nghìn tỷ đồng, tăng 38,7% so với cùng kỳ năm trước và đạt 87,3% kế hoạch năm 2024, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 28,3 nghìn tỷ đồng, tăng 31% và đạt 78,4%; NSNN cấp huyện 40,7 nghìn tỷ đồng, tăng 41,2% và đạt 93,7%; NSNN cấp xã 3,3 tỷ đồng, tăng 92,5% và đạt 99,6%. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong tháng 12/2024 thành phố Hà Nội thu hút 342,2 triệu USD vốn FDI, trong đó: 44 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 57,9 triệu USD; có 22 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 15,4 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua phần cổ phần 50 lượt, đạt 269 triệu USD. Tính chung cả năm 2024, Hà Nội thu hút 2.162 triệu USD vốn FDI, trong đó: Đăng ký cấp mới 293 dự án với số vốn đạt 1.212 triệu USD; 205 dự án bổ sung tăng vốn với 297 triệu USD; 279 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 652 triệu USD. 4.2. Hoạt động xây dựng Trong năm, cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, thành phố Hà Nội đã chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu, đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm, phát triển hạ tầng, góp phần đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Bên cạnh đó, tại các doanh nghiệp, hộ dân cư trên địa bàn hoạt động xây mới, cải tạo, nâng cấp nhà xưởng, văn phòng làm việc, công trình nhà ở được khẩn trương thực hiện. Tính chung cả năm 2024 giá trị tăng thêm ngành xây dựng tăng 6,21% so với năm 2023, trong đó quý I tăng 5,17%; quý II tăng 5,83%; quý III tăng 6,21%; quý VI tăng 6,87%. Năm 2024 thành phố Hà Nội có 226 dự án đầu tư công xây dựng cơ bản tập trung, trong đó: 155 dự án chuyển tiếp với mức đầu tư 205,5 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn năm 2024 là 24,4 nghìn tỷ đồng); có 71 dự án mới được khởi công xây dựng trong năm với tổng mức đầu tư 7,2 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn trong năm là 1,1 nghìn tỷ đồng). Lĩnh vực giao thông với 58 dự án, chiếm 19,5% kế hoạch vốn. Trong năm, Thành phố đã tổ chức khởi công và khánh thành các dự án gắn biển các công trình chào mừng kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Trong đó 12 công trình tiêu biểu tổ chức gắn biển trong đợt cao điểm. Bên cạnh đó, Hà Nội tiếp tục khẩn trương đẩy nhanh tiến độ, tập trung thực hiện các công trình trọng điểm của Thành phố với nguyên tắc các công trình trọng điểm được ưu tiên bố trí vốn theo tiến độ thực hiện, trong đó tập trung bố trí vốn các dự án công trình trọng điểm chuyển tiếp, dự án xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô và các dự án trọng điểm dự kiến hoàn thành trong giai đoạn 2021-2025. Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Thuộc nhóm dự án quan trọng quốc gia, tuyến đường đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có tổng chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng, tổng khối lượng giải phóng mặt bằng 1.386 ha, trên tuyến xây dựng 3 cầu lớn vượt Sông Hồng, Sông Đuống và 8 nút giao khác. Sau hơn 1 năm khởi công, đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội đang dần hình thành, đã giải ngân 12,1% kế hoạch vốn. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 47,4% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 10,8% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 12,5% kế hoạch vốn. Dự án hệ thống xử lý nước thải Yên Xá thành phố Hà Nội: Có mức đầu tư 16,3 nghìn tỷ đồng, trong đó, 84,1% vốn vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản. Dự án bao gồm một nhà máy xử lý nước thải với công suất 270 nghìn m³/ngày đêm và tuyến cống gom nước thải dọc sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, một phần sông Nhuệ với diện tích phục vụ khoảng 4.874 ha. Đến nay hệ thống dẫn nước thải từ sông Tô Lịch về nhà máy trên để xử lý đã cơ bản hoàn thành, ngày 01/12/2024 Nhà máy Xử lý nước thải Yên Xá đi vào vận hành thử nghiệm trong thời gian 6 tháng. 5. Hoạt động của doanh nghiệp Năm 2024 là năm nội lực của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khu vực kinh tế tư nhân đã bị bào mòn do Covid-19, hoạt động thương mại toàn cầu suy giảm và gần đây là ảnh hưởng của bão số 3 (Yagi). Các đơn hàng, dòng tiền, thông tin thị trường, tiếp cận vốn vay... vẫn là thách thức lớn đối với doanh nghiệp. Tính chung cả năm, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 7,2% so với năm trước, doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 18%, doanh nghiệp giải thể tăng 28,9%. 5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Mười Hai, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 2.187 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 13,8% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 29,1 nghìn tỷ đồng, giảm 11,9%; 633 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 15,7%; 998 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 14,8%; 486 doanh nghiệp giải thể, tăng 14,6%. Tính chung năm 2024, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 29,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 303 nghìn tỷ đồng, giảm 7,2% về số lượng doanh nghiệp và giảm 14,4% vốn đăng ký so với năm 2023; có 9,7 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 13%; gần 23,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 18%; 4,8 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 28,9%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV/2024 cho thấy: Có 32% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý IV tốt hơn quý III; 47,1% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 20,9% doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Những tháng đầu năm tới, do nhiều ngày làm việc trùng với kỳ nghỉ Tết Dương lịch 2025 và Tết Nguyên đán Ất Tỵ nên hoạt động sản xuất, kinh doanh và xuất nhập khẩu của doanh nghiệp bị ảnh hưởng, dự báo xu thế kinh doanh trong quý I/2025 như sau: Có 22,2% số doanh nghiệp nhận định xu hướng quý I/2025 sẽ tiếp tục tốt hơn so với quý IV/2024; 52,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 24,9% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Chia theo loại hình kinh tế, có 84,2% doanh nghiệp khu vực Nhà nước dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2025 sẽ ổn định và tốt hơn so với quý IV/2024; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước và doanh nghiệp có vốn FDI lần lượt là 74,3% và 75,9%. 6. Thương mại, dịch vụ và du lịch 6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Năm 2024, lĩnh vực thương mại, dịch vụ vượt qua khó khăn, thách thức, tiếp tục là điểm sáng trong bức tranh kinh tế chung của Thành phố, đóng vai trò quan trọng vào tăng trưởng GRDP. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 853,3 nghìn tỷ đồng, tăng 10,8% so với năm 2023, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa chiếm 63,2% tổng mức và tăng 11%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Hai ước tính đạt 77,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 49,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% và tăng 14,7%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 11 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% và tăng 32,6%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% và tăng 11,4%; doanh thu dịch vụ khác đạt 15 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% và tăng 11,7%. Ước tính quý IV/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 231,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1% so với quý trước và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 9% và tăng 11,2%; khách sạn, nhà hàng tăng 4% và tăng 12,8%; du lịch lữ hành giảm 6,1% và tăng 17,5%; dịch vụ khác tăng 5,7% và tăng 7,3%. Tính chung cả năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 853,3 nghìn tỷ đồng, tăng 10,8% so với năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 539,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,2% tổng mức và tăng 11% so với năm trước (đá quý, kim loại quý tăng 35,3%; lương thực, thực phẩm tăng 11,4%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 9,7%; xăng dầu tăng 8,9%; ô tô con tăng 8,8%; hàng may mặc tăng 8,3%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 8,1%; hàng hóa khác tăng 15,3%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 117,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,7% tổng mức và tăng 11,7% (dịch vụ lưu trú đạt 13,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,5% và tăng 31,2%; dịch vụ ăn uống đạt 104,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,2% và tăng 9,6%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 27,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,3% và tăng 34,3%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 168,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,8% và tăng 6,8% (hành chính, văn phòng tăng 9,6%; giáo dục và đào tạo tăng 9%; dịch vụ kinh doanh bất động sản tăng 9%; dịch vụ y tế tăng 7,5%). 6.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Hoạt động vận tải và bưu chính chuyển phát tiếp tục tăng trưởng, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của nhân dân. Tổng doanh thu hoạt động vận tải và bưu chính chuyển phát năm 2024 ước đạt 223,9 nghìn tỷ đồng, tăng 15,1% so với năm 2023, trong đó vận chuyển hành khách tăng 16,1%; vận tải hàng hóa tăng 14,3%. Vận chuyển hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng Mười Hai ước đạt 37,7 triệu lượt người, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 19,5% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1,1 tỷ lượt người.km, tăng 1,4% và tăng 8,2%; doanh thu ước tính đạt 2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% và tăng 15,9%. Ước tính quý IV, số lượt hành khách vận chuyển đạt 111,5 triệu lượt người, tăng 4,4% so với quý trước và tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 3,3 tỷ lượt người.km, tăng 5,1% và tăng 7,4%; doanh thu đạt 5,9 nghìn tỷ đồng, tăng 5,1% và tăng 15,1%. Tính chung năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 424,6 triệu lượt người, tăng 14% so với năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 12,7 tỷ lượt người.km, tăng 11,8%; doanh thu đạt 22,4 nghìn tỷ đồng, tăng 16,1%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Mười Hai ước tính đạt 147 triệu tấn, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 15,2% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 14,4 tỷ tấn.km, tăng 1,7% và tăng 14,3%; doanh thu ước tính đạt 8,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% và tăng 14,8%. Ước tính quý IV, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 434,9 triệu tấn, tăng 5,5% so với quý trước và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm 2023; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 42,2 tỷ tấn.km, tăng 6,9% và tăng 13,1%; doanh thu đạt 24,7 nghìn tỷ đồng, tăng 6,2% và tăng 13,9%. Tính chung cả năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,6 tỷ tấn, tăng 15% so với năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 159,1 tỷ tấn.km, tăng 12,7%; doanh thu đạt 93,2 nghìn tỷ đồng, tăng 14,3%. Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải tháng Mười Hai ước tính đạt 9,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 33,6% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý IV năm 2024 ước đạt 27,2 nghìn tỷ đồng, tăng 16,9% so với quý trước và tăng 31,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, doanh thu đạt 94,8 nghìn tỷ đồng, tăng 15,6% so với năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Mười Hai ước tính đạt 1,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,9% so với tháng trước và tăng 24,8% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý IV năm 2024 ước đạt 3,6 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với quý trước và tăng 22% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2024, doanh thu đạt 13,5 nghìn tỷ đồng, tăng 16,2% so với năm trước. 6.3. Du lịch Năm 2024, thành phố Hà Nội tiếp tục được các Tổ chức du lịch uy tín trên thế giới bình chọn, vinh danh với nhiều giải thưởng lớn. Điều này cho thấy Hà Nội là điểm đến du lịch hàng đầu đối với du khách trong và ngoài nước; khẳng định vị trí quan trọng và sự vươn lên mạnh mẽ của du lịch Thủ đô trên bản đồ quốc tế. Tính chung cả năm, tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội ước đạt 6,5 triệu lượt người, tăng 28,2% so với năm trước. Khách quốc tế tháng Mười Hai ước tính đạt 500 nghìn lượt người, tăng 4,2% so với tháng trước và tăng 29% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý IV/2024 đạt 1.396 nghìn lượt người, tăng 42,2% so với quý trước và tăng 26,7% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2024, khách quốc tế đạt 4.512 nghìn lượt người, tăng 35,4% so với năm 2023. Trong đó, khách đến từ Hàn Quốc đạt 515,5 nghìn lượt người, tăng 8,9%; Trung Quốc 507,3 nghìn lượt người, tăng 64,1%; Mỹ 283,4 nghìn lượt người, tăng 19,3%; Nhật Bản 269,9 nghìn lượt người, tăng 22,6%; Anh 230,5 nghìn lượt người, tăng 37,4%; Pháp 210,7 nghìn lượt người, tăng 51,1%; Đức 156,8 nghìn lượt người, tăng 44,2%; Ma-lai-xi-a 122,7 nghìn lượt khách, tăng 6,2%; Xin-ga-po 109 nghìn lượt người, tăng 5%; Thái Lan 72,2 nghìn lượt người, giảm 24,8%. Khách nội địa tháng Mười Hai ước tính đạt 187 nghìn lượt người, tăng 3% so với tháng trước và tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý IV năm 2024 đạt 546 nghìn lượt người, tăng 6% so với quý trước và tăng 17,1% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2024, khách nội địa đạt 1.954 nghìn lượt người, tăng 14,2% so với năm 2023. Năm 2024, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 2.035 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành quốc tế; 493 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nội địa; 32 doanh nghiệp kinh doanh vận chuyển khách du lịch, 08 văn phòng đại diện doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ lữ hành nước ngoài; 6.198 hướng dẫn viên du lịch quốc tế; 2.299 hướng dẫn viên du lịch nội địa và 158 hướng dẫn viên du lịch tại điểm đang hoạt động. Đồng thời có 3.761 cơ sở lưu trú du lịch với 71,3 nghìn phòng; công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn cả năm ước đạt 62%, tăng 2,9% so với năm trước. Tính đến cuối tháng 12/2024, có 97 cơ sở kinh doanh dịch vụ đạt chuẩn phục vụ khách du lịch, trong đó 45 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống; 43 cơ sở kinh doanh dịch vụ mua sắm; 07 cơ sở kinh doanh vui chơi giải trí; 02 cơ sở kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khoẻ. Hệ thống các cơ sở dịch vụ mua sắm, ăn uống, vui chơi giải trí đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch đã thu hút, phục vụ đông đảo lượng du khách và người dân đến thăm quan và mua sắm. 6.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Năm 2024, ghi nhận nỗ lực vượt bậc của hoạt động xuất nhập khẩu, Thành phố triển khai nhiều giải pháp thúc đẩy lĩnh vực xuất khẩu phục hồi và tăng trưởng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu của Hà Nội cả năm đạt 60,1 tỷ USD, tăng 11,1% so với năm 2023, vượt kế hoạch đề ra, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 19,1 tỷ USD, tăng 14,8%; nhập khẩu đạt 41 tỷ USD, tăng 9,4%. Kết quả này đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế của Thủ đô. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Mười Hai ước tính đạt 1,7 tỷ USD, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 973 triệu USD, tăng 2% và tăng 11,3%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 721 triệu USD, tăng 2,2% và tăng 19,4%. Trong tháng, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Linh kiện máy tính và thiết bị ngoại vi đạt 256 triệu USD, tăng 46,9%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 233 triệu USD, tăng 10,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 186 triệu USD, tăng 22,5%; hàng nông sản đạt 119 triệu USD, tăng 1,5%; xăng dầu đạt 116 triệu USD, tăng 1,8%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 83 triệu USD, tăng 4,5%; hàng hóa khác đạt 428 triệu USD, tăng 16,5%. Bên cạnh đó có 2/12 nhóm hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng dệt may đạt 181 triệu USD, giảm 2,7%; điện thoại và linh kiện đạt 2 triệu USD, giảm 43,1%. Ước tính quý IV kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 5,1 tỷ USD, tăng 0,3% so với quý III và tăng 19,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 19,1 tỷ USD, tăng 14,8% so với năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 11,1 tỷ USD, tăng 17,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 8 tỷ USD, tăng 11,9%. Trong năm nay, một số nhóm hàng chủ yếu có kim ngạch xuất khẩu tăng so với năm trước như: Linh kiện máy tính và thiết bị ngoại vi đạt 2,8 tỷ USD, tăng 25,5%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 2,4 tỷ USD, tăng 13,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,3 tỷ USD, tăng 23,4%; hàng dệt may đạt 2,2 tỷ USD, tăng 7,7%; hàng nông sản đạt 1,5 tỷ USD, tăng 33,8%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 816 triệu USD, tăng 4,9%; hàng hóa khác đạt 4,7 tỷ USD, tăng 12,9%. Bên cạnh đó, có 2/12 nhóm hàng kim ngạch xuất khẩu giảm so với năm trước: Xăng dầu đạt 1,4 tỷ USD, giảm 0,4%; giầy dép và sản phẩm từ da đạt 369 triệu USD, giảm 5,8%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Mười Hai ước tính đạt 3,8 tỷ USD, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 2,2% và tăng 3%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 615 triệu USD, tăng 2,4% và tăng 19,1%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 763 triệu USD, tăng 11,4%; xăng dầu đạt 325 triệu USD, tăng 22,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 283 triệu USD, tăng 62,2%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 265 triệu USD, tăng 17,6%; sắt thép đạt 198 triệu USD, tăng 30,5%; chất dẻo đạt 146 triệu USD, tăng 44,1%; kim loại đạt 139 triệu USD, tăng 20,3%; ngô đạt 101 triệu USD, tăng 12,5%; sản phẩm hóa chất đạt 81 triệu USD, tăng 3,2%. Riêng nhóm hàng hóa khác kim ngạch nhập khẩu đạt 1,2 tỷ USD, giảm 18,3% so với cùng kỳ. Ước tính quý IV/2024 kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 11,1 tỷ USD, tăng 6,7% so với quý III và tăng 5,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 41 tỷ USD, tăng 9,4% so với năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 34,2 tỷ USD, tăng 9,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 6,8 tỷ USD, tăng 8,5%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong năm nay: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 7,4 tỷ USD, tăng 16,5%; xăng dầu đạt 4,6 tỷ USD, giảm 11,2%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 2,7 tỷ USD, tăng 16,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,6 tỷ USD, tăng 42%; sắt thép đạt 2,2 tỷ USD, tăng 23,2%; kim loại đạt 1,5 tỷ USD, tăng 44,6%; chất dẻo đạt 1,4 tỷ USD, tăng 11,5%; hàng hóa khác đạt 14 tỷ USD, tăng 3,6%. 7. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2024 tăng 0,7% so với tháng trước, tăng 2,9% so với tháng 12/2023. CPI bình quân quý IV tăng 2,39% so với bình quân cùng kỳ; bình quân năm 2024 tăng 4,25% so với bình quân năm 2023. Chỉ số giá tiêu dùng, tháng 12/2024 có 9/11 nhóm hàng CPI tăng so với tháng trước, trong đó tác động nhiều nhất là nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 11,8% (tác động làm tăng CPI chung 0,6%) do ngày 10/12/2024 Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội ra Nghị quyết 45/2024/NQ-HĐND Quy định giá cụ thể dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thuộc thành phố Hà Nội quản lý theo đó giá dịch vụ khám, chữa bệnh tại các bệnh viện trên địa bàn Thành phố sẽ điều chỉnh tăng áp dụng mức giá mới. Nhóm giao thông tăng 0,79% (tác động làm tăng CPI chung 0,08%) do bình quân trong tháng giá xăng tăng 1,23%; giá dầu diezen tăng 0,44%. Bên cạnh đó, do nhu cầu mua sắm dịp cuối năm tăng nên các nhóm còn lại có chỉ số giá tăng so với tháng trước, tuy nhiên mức tăng nhẹ không tác động nhiều đến CPI chung: Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,40%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,32%; nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 0,30%; thiết bị, đồ dùng gia đình, đồ uống và thuốc lá tăng 0,13%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,34%. Cũng trong tháng Mười Hai, 2/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm hàng ăn, dịch vụ ăn uống giảm 0,23%, tác động làm CPI giảm 0,07% chủ yếu do giá thực phẩm giảm 0,53% (trong đó thịt gia cầm giảm 0,7%; các mặt hàng rau tươi, khô và chế biến giảm mạnh 5,65%). Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,02%. Bình quân quý IV/2024, CPI tăng 2,39% so với bình quân quý IV/2023, trong đó 8/11 nhóm hàng có CPI tăng: Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 11,27%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,02%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,42%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 3,05%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,09%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,31%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,32%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 5,64%. Có 3/11 nhóm hàng CPI bình quân quý IV giảm so với bình quân cùng kỳ: Nhóm giáo dục giảm 7,59%; giao thông giảm 2,33%; bưu chính viễn thông giảm 0,95%. Tính chung cả năm 2024, CPI bình quân tăng 4,25% so với bình quân năm 2023, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 15,64% (tác động làm CPI bình quân chung năm nay tăng 1,24%) do 3 tháng đầu năm 2024 các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 6,39% (tác động làm CPI tăng 0,33%). Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,12% (tác động làm CPI tăng 1,24%) do giá nước sạch tăng 25,19%; giá điện tăng 7,72%; giá nhà thuê tăng 8,31%. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,33% (tác động làm CPI tăng 1,03%) do giá lương thực tăng 10,31% (trong đó giá gạo tăng 13,91%); thực phẩm tăng 2,52%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,94%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,38% (tác động làm CPI tăng 0,05%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,67% (tác động làm CPI tăng 0,10%); văn hóa, giải trí, du lịch tăng 1,65% (tác động làm CPI tăng 0,08%); giao thông tăng 0,52% (tác động làm CPI tăng 0,05%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,19% (tác động làm CPI tăng 0,01%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,47% (tác động làm CPI tăng 0,23%) chủ yếu do giá vàng cao dẫn đến giá đồ trang sức tăng 32,54% và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 25,32%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,19% (tác động làm CPI giảm 0,04%). Chỉ số giá vàng tháng 12/2024 giảm 2,60% so với tháng trước, tăng 36,22% so với tháng 12/2023. Bình quân quý IV/2024 chỉ số giá vàng tăng 42,76% so với bình quân cùng kỳ quý IV/2023. Bình quân năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 32,93% so với bình quân năm 2023. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2024 tăng 0,02% so với tháng trước, tăng 4,35% so với tháng 12/2023. Bình quân quý IV/2024 chỉ số giá USD tăng 3,27% so với bình quân quý IV/2023. Bình quân năm 2024, chỉ số giá USD tăng 4,84% so với bình quân năm 2023. 8. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán Thu ngân sách trên địa bàn năm 2024 đạt kết quả tích cực, lần đầu tiên vượt ngưỡng 500 nghìn tỷ đồng, tăng 24,7% dự toán Thành phố giao và tăng 23,8% so với năm trước. Chi ngân sách địa phương bảo đảm kịp thời cho các cấp, các ngành triển khai thực hiện nhiệm vụ. Các tổ chức tín dụng trên địa bàn tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng. 8.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn năm 2024 ước thực hiện 509,3 nghìn tỷ đồng, vượt 24,7% dự toán pháp lệnh năm và tăng 23,8% so với năm 2023, trong đó: Thu nội địa 473,8 nghìn tỷ đồng, vượt 25,2% và tăng 24,3%; thu từ dầu thô 4,8 nghìn tỷ đồng, vượt 58,8% và tăng 5,2%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 30,4 nghìn tỷ đồng, vượt 12,7% và tăng 25,4%. Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 71,6 nghìn tỷ đồng, vượt 1,4% dự toán năm và tăng 7% so với năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 31,6 nghìn tỷ đồng, vượt 18,3% và tăng 11,2%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 91,9 nghìn tỷ đồng, vượt 16,9% và tăng 22%; thuế thu nhập cá nhân 49 nghìn tỷ đồng, vượt 19,4% và tăng 23,7%; thu tiền sử dụng đất 41,8 nghìn tỷ đồng, vượt 15,7% và gấp 2,8 lần cùng kỳ; thu phí và lệ phí 24,3 nghìn tỷ đồng, vượt 24,4% và tăng 21,3%; thu lệ phí trước bạ 7,9 nghìn tỷ đồng, vượt 21,6% và tăng 17,7%. Chi ngân sách địa phương năm 2024 ước thực hiện 112,1 nghìn tỷ đồng, đạt 78,7% dự toán năm và tăng 1,4% so với năm 2023, trong đó: Chi đầu tư phát triển 56,6 nghìn tỷ đồng, đạt 73,5% và bằng 99,3%; chi thường xuyên 55,4 nghìn tỷ đồng, đạt 96,7% và tăng 3,7%. Một số lĩnh vực chi chủ yếu trong chi thường xuyên ngân sách địa phương năm 2024: Chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề ước thực hiện 20,3 nghìn tỷ đồng, vượt 15,5% dự toán và tăng 14,7% so với năm trước; chi quản lý hành chính Nhà nước 9,4 nghìn tỷ đồng, vượt 7% và tăng 14,2%; chi hoạt động sự nghiệp kinh tế 8,5 nghìn tỷ đồng, đạt 68,9% và bằng 74,4%; chi đảm bảo xã hội 5,3 nghìn tỷ đồng, đạt 99,6% và tăng 25,7%; chi y tế, dân số và gia đình 3,4 nghìn tỷ đồng, vượt 4,7% và bằng 85,9%; chi bảo vệ môi trường 2,3 nghìn tỷ đồng, đạt 72,8% và tăng 2,8%. 8.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Trong năm 2024, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định, lãi suất huy động tương đối ổn định, mặt bằng lãi suất huy động ở mức thấp. Thời điểm tháng 12/2024 lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước phổ biến ở mức 0,1 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 3,1 - 3,9%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,4 - 5,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 5,2 - 6,1%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,7 - 9,1%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,8%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Các NHTM trên địa bàn tiếp tục tiết giảm chi phí, thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Hoạt động huy động vốn: Ước đến 31/12/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.805 nghìn tỷ đồng, tăng 0,65% so với cuối tháng trước và tăng 8,8% so với thời điểm 31/12/2023, trong đó tiền gửi đạt 5.105 nghìn tỷ đồng, tăng 0,51% và tăng 9,33%; phát hành giấy tờ có giá đạt 700 nghìn tỷ đồng, tăng 1,65% và tăng 5,13%. Hoạt động tín dụng: Ước đến 31/12/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.331 nghìn tỷ đồng, tăng 0,83% so với cuối tháng trước và tăng 19,74% so với thời điểm 31/12/2023, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 1.854 nghìn tỷ đồng, tăng 1,03% và tăng 23,21%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.477 nghìn tỷ đồng, tăng 0,68% và tăng 17,26%. Tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,72% trong tổng dư nợ. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 12,77% trong tổng dư nợ; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,88%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,13%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,31%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%. 8.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết ngày 25/12/2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.199 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 313 doanh nghiệp và Upcom có 886 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 623,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,1% so với cuối tháng trước và tăng 4,2% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó HNX đạt 158,6 nghìn tỷ đồng, tương đương tháng trước và giảm 0,6%; Upcom đạt 464,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,1% và tăng 6%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch ngày 25/12/2024 đạt 1.964 nghìn tỷ đồng, tăng 4,5% so với cuối tháng trước và tăng 42,3% so với cuối năm trước, trong đó HNX đạt 349,3 nghìn tỷ đồng, tăng 8,1% và tăng 7,1%; Upcom đạt 1.614,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,8% và tăng 53,2%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tính đến hết giao dịch ngày 25/12/2024, khối lượng trung bình 1 ngày/tháng đạt 54,9 triệu CP được chuyển nhượng, tăng 13,8% so với trung bình 1 ngày/tháng trước và giảm 37,7% so với trung bình 1 ngày/tháng cuối năm trước; giá trị giao dịch đạt 1 nghìn tỷ đồng, tăng 17,7% và giảm 41,4%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh trung bình 1 ngày/tháng đạt 48,8 triệu CP, tăng 19,8% và giảm 39,7%; giá trị đạt 0,9 nghìn tỷ đồng, tăng 20,8% và giảm 43,8%. Tính đến hết giao dịch ngày 25/12, khối lượng giao dịch chung năm 2024 đạt 18 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 356,1 nghìn tỷ đồng, giảm 25,9% khối lượng và giảm 13,5% giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Mười Một, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 172 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 26 mã giao dịch; cá nhân 146 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 11 tháng năm 2024 đạt 1.565 nghìn tài khoản. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Dân số, lao động và giải quyết việc làm Năm 2024 dân số trung bình Thành phố Hà Nội ước đạt 8,7 triệu người, tăng 1,5% so với năm 2023. Thị trường lao động việc làm có chuyển biến tích cực, số lao động được giải quyết việc làm trong năm tăng 5,4% so với năm trước; tỉ lệ thất nghiệp toàn Thành phố 1,7%, giảm 0,3 điểm %; thu nhập bình quân đầu người tăng 9,9%. Dân số trung bình trên địa bàn Thành phố năm 2024 ước tính đạt 8.718 nghìn người, tăng 1,5% so với năm 2023, trong đó dân số khu vực thành thị 4.281 nghìn người, chiếm 49,1% tổng dân số và tăng 1,6%; dân số khu vực nông thôn 4.437 nghìn người, chiếm 50,9% và tăng 1,4%. Chia theo giới tính dân số nam 4.336 nghìn người, chiếm 49,7% và tăng 1,7% so với năm 2023; dân số nữ 4.382 nghìn người, chiếm 50,3% và tăng 1,4%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên tham gia vào hoạt động kinh tế là 4.165 nghìn người, trong đó 4.117 nghìn người đang làm việc làm, tăng 2,2% so với năm 2023. Thu nhập bình quân đầu người của một nhân khẩu 7.546 nghìn đồng/tháng, tăng 9,9%. Trong năm 2024, tình hình lao động việc làm trên địa bàn Thành phố có nhiều chuyển biến tích cực, Hà Nội đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ, phát triển thị trường lao động theo hướng hiện đại, bền vững và hội nhập. Theo kết quả sơ bộ Điều tra lao động việc làm năm 2024, tỷ lệ thất nghiệp toàn Thành phố là 1,70%, giảm 0,31 điểm % so với năm trước, trong đó khu vực Thành thị là 2,54%, giảm 0,43 điểm %; khu vực nông thôn là 0,90%, giảm 0,21 điểm %. Trong năm, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 225,9 nghìn lao động, đạt 139,9% kế hoạch năm, tăng 5,4% so với năm trước, trong đó Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho đối tượng nghèo và các đối tượng chính sách khác trên địa bàn Thành phố vay với số tiền là 3.990 tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 53,8 nghìn lao động; đưa 4,9 nghìn người lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng; hơn 19 nghìn lao động được tuyển dụng sau khi phỏng vấn tại các phiên, sàn giao dịch việc làm; hơn 148,2 nghìn lao động được cung ứng dịch vụ việc làm của doanh nghiệp và hình thức khác. Cũng trong năm 2024, Thành phố quyết định trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp cho 76,8 nghìn người với số tiền 2.386 tỷ đồng (giảm 11% số người và giảm 1,2% số tiền trợ cấp so với năm 2023); hỗ trợ học nghề cho 1.150 người bị mất việc làm, có hoàn cảnh khó khăn với số tiền 4,6 tỷ đồng. 2. Bảo đảm an sinh xã hội Năm 2024, Thành phố và các cấp, các ngành thực hiện tốt chính sách xã hội đối với người có công; kịp thời thăm hỏi, hỗ trợ người gặp khó khăn đột xuất. Công tác giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân Thủ đô tiếp tục được quan tâm chú trọng. Công tác đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội: Năm 2024 tiếp tục được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện. Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 11,3 nghìn hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công, thân nhân người có công và các đối tượng liên quan. Tổng kinh phí chi cho công tác ưu đãi người có công của Thành phố là 2.521 tỷ đồng, trong đó thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp cho 78,5 nghìn người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 2.169 tỷ đồng; chi trả trợ cấp một lần 185 tỷ đồng; chi quà và chế độ ngày Lễ, Tết 71 tỷ đồng; chi điều dưỡng người có công 96 tỷ đồng. Công tác trợ giúp xã hội và hỗ trợ đột xuất: Hiện nay trên địa bàn Thành phố có 203 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Các quận, huyện, thị xã đã chi trả trợ cấp đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch cho các đối tượng với tổng kinh phí chi trả cả năm là 1.757 tỷ đồng. Tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố đang thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.102 người (gồm người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác) với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,76 triệu đồng/người/tháng, trẻ em dưới 4 tuổi là 2,2 triệu đồng/tháng và chi khác 350 nghìn đồng/tháng. Bên cạnh đó, công tác thăm hỏi và hỗ trợ đột xuất từ đầu năm đến nay là 1,2 tỷ đồng. Về thực hiện phong trào Đền ơn đáp nghĩa: Trong năm, Thành phố đã vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa 38,5 tỷ đồng, vượt 68,5% kế hoạch; tặng 2.030 sổ tiết kiệm “Tình nghĩa” với kinh phí 5,7 tỷ đồng, vượt 63,1% kế hoạch; tu sửa nâng cấp 63 công trình ghi công liệt sĩ với kinh phí 166 tỷ đồng, vượt 87% kế hoạch; vận động xã hội hóa cho việc tu sửa nâng cấp 209 nhà ở cho người có công với cách mạng với kinh phí 8,6 tỷ đồng, vượt 57,1 % kế hoạch. Thực hiện chăm sóc, điều dưỡng người có công và thân nhân tại các cơ sở tập trung là 20,4 nghìn người với kinh phí 95,9 tỷ đồng; tại nhà 35,5 nghìn lượt người, kinh phí 65,6 tỷ đồng; 100% xã, phường, thị trấn làm tốt công tác đền ơn đáp nghĩa, 57/57 Mẹ Việt Nam anh hùng đang được các cơ quan đơn vị phụng dưỡng. Các chính sách và giải pháp giảm nghèo bền vững tiếp tục được đẩy mạnh thực hiện toàn diện: Kết quả rà soát hộ nghèo, cận nghèo cuối năm 2024, trong năm Thành phố có 690 hộ thoát nghèo, vượt 81,6% kế hoạch. Tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2024 còn 0% theo chuẩn nghèo của Thành phố, chỉ tiêu về giảm nghèo đã về đích trước 1 năm kế hoạch đề ra giai đoạn 2021-2025; số hộ cận nghèo là 9.928 hộ, tỷ lệ hộ cận nghèo còn 0,43% (nếu so với chuẩn nghèo Trung ương thì số hộ cận nghèo của Hà Nội còn 890 hộ, tỷ lệ 0,04%). Bên cạnh đó, với tinh thần "Hà Nội vì cả nước, cả nước vì Hà Nội", hưởng ứng Chương trình phát động hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước do Thủ tướng Chính phủ phát động, thành phố Hà Nội đã hỗ trợ tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Phú Thọ xóa nhà tạm, nhà dột nát với tổng kinh phí 265 tỷ đồng. 3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội Chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế năm 2024 tiếp tục được Thành phố tổ chức thực hiện hiệu quả. Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng, vượt chỉ tiêu kế hoạch Thành phố giao. Theo Báo cáo của Bảo hiểm xã hội (BHXH) thành phố Hà Nội, tính đến 31/12/2024 trên địa Thành phố tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 95,3% dân số (vượt 0,8% kế hoạch năm) với 8.170 nghìn người tham gia, tăng 2,5% so với thời điểm 31/12/2023. Có 2.151 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc, chiếm 46% lực lượng trong độ tuổi lao động (vượt 1% kế hoạch năm), tăng 4,5% so với cuối năm 2023. Hơn 107 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chưa bao gồm các trường hợp đang bảo lưu thời gian tham gia BHXH), chiếm 2,9% lực lượng lao động trong độ tuổi, vượt 0,4% kế hoạch, tăng 21,2% so với cuối năm trước. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là 2.070 nghìn người, chiếm 44,2% lực lượng lao động trong độ tuổi, vượt 4,2% kế hoạch, tăng 4,7%. Tính đến cuối năm 2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 69 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với cuối năm 2023, vượt 2,6% kế hoạch năm. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 77,2 nghìn tỷ đồng, tăng 9,6% so với cuối năm trước, trong đó: Chi lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng là 45,4 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 25,8 nghìn tỷ đồng. 4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề Năm 2024, Ngành Giáo dục và Đào tạo Thủ đô tiếp tục chủ động, thực hiện tốt nhiệm vụ năm học; chất lượng giáo dục toàn diện tiếp tục được nâng lên, chất lượng giáo dục mũi nhọn đạt kết quả xuất sắc. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông toàn Thành phố đạt 99,8%, tăng 4 bậc so với năm 2023. Cơ sở vật chất trường học được quan tâm đầu tư, tỷ lệ trường chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 65,1%. Ngay từ đầu năm 2024, Thành phố đã chuẩn bị tốt các điều kiện về chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, mua sắm bổ sung tài sản, thiết bị dạy học cho các trường, trong đó đặc biệt ưu tiên các trường thành lập mới, xây dựng mới và các trường công nhận lại chuẩn quốc gia. Trong năm học này, toàn Thành phố có 2.913 trường mầm non, phổ thông các cấp (tăng 39 trường so với năm học trước), 01 trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục và 29 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên với 70,2 nghìn lớp học, 2.238 nghìn học sinh (tăng khoảng 48 nghìn học sinh) và 130 nghìn giáo viên. Ngoài ra, trên địa bàn Thành phố có 105 cơ sở giáo dục có vốn đầu tư nước ngoài; 09 văn phòng đại diện nước ngoài; 946 trung tâm ngoại ngữ, tin học và 105 trung tâm bồi dưỡng kỹ năng. Tính đến cuối năm 2024, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 65,1% (công lập 80,4%), trong đó tỉ lệ đạt chuẩn quốc gia của các cấp học: Mầm non là 56,6% (công lập 79,8%); Tiểu học 73,1% (công lập 77,7%); Trung học cơ sở 81,7% (công lập 87,6%); Trung học phổ thông 37,1% (công lập 67,2%). Chất lượng giáo dục, đào tạo Hà Nội luôn được giữ vững. Trong kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm 2024, tỷ lệ tốt nghiệp toàn Thành phố đạt 99,8%, tăng 0,24% so với năm 2023, có 194 trường trong tổng số 269 trường tỷ lệ tốt nghiệp đạt 100% (tăng 54 trường so với năm 2023). Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia THPT tổ chức ngày 05 và 06/01/2024, Hà Nội tiếp tục là địa phương dẫn đầu cả nước về số học sinh đoạt giải với 184 giải (14 giải nhất, 61 giải nhì, 54 giải ba và 55 giải khuyến khích), tăng 43 giải so với năm học trước, năm thứ 12 liên tiếp Hà Nội dẫn đầu cả nước về số học sinh giỏi Quốc gia; kỳ thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, đoàn Hà Nội đạt 03 giải (2 giải nhất, 1 giải ba); kỳ thi Thiên văn và Vật lý Thiên văn quốc tế lần thứ 17 tại Brazil giành 5 huy chương (2 huy chương bạc và 3 huy chương đồng); kỳ thi Olympic Sinh học Quốc tế (IBO) lần thứ 35 Hà Nội có 1 học sinh xuất sắc giành Huy chương Vàng và tại kỳ thi Olympic Hóa học quốc tế năm 2024, Hà Nội cũng giành 1 Huy chương Vàng. Bên cạnh đó, Hà Nội có 7 dự án của học sinh tham gia cuộc thi "Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp'' lần thứ VI, tất cả đã xuất sắc vượt qua hơn 700 dự án của các tác giả, nhóm tác giả trên toàn quốc với 2 dự án đạt giải Nhất, 2 dự án giải Nhì và 3 dự án giải Ba… Về giáo dục nghề nghiệp, đến nay trên địa bàn Hà Nội có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở đăng ký hoạt động giáo dục nghề, trong đó: 66 trường cao đẳng, 59 trường trung cấp, 38 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, 18 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 132 doanh nghiệp, loại hình khác. Tính chung cả năm 2024, các cơ sở có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Thành phố đã tuyển sinh, đào tạo nghề cho 239,2 nghìn lượt người (trong đó 29,6 nghìn người trình độ cao đẳng; 28,2 nghìn người trình độ trung cấp; 181,4 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng), vượt 1,8% kế hoạch tuyển sinh năm 2024, tăng 2,4% so với năm 2023. Có hơn 197 nghìn học sinh, sinh viên tốt nghiệp (cao đẳng 17,1 nghìn người; trung cấp 18,3 nghìn người; sơ cấp và dưới 3 tháng 161,6 nghìn người), tăng 0,5%. Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp trong năm đã góp phần cung cấp nguồn lao động qua đào tạo cho thị trường lao động tại Thành phố và các tỉnh lân cận. 5. Tình hình dịch bệnh Trong năm 2024, trên địa bàn Thành phố dịch bệnh được kiểm soát tốt. Số ca mắc các bệnh truyền nhiễm dễ lây lan trong thời điểm giao mùa như Sốt xuất huyết Dengue, Tay chân miệng, Thủy đậu giảm so với năm 2023. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm được Thành phố quan tâm thực hiện. Theo số liệu của Sở Y tế Hà Nội, từ đầu năm đến nay tình hình dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue ghi nhận 8.432 ca mắc, không có trường hợp nào tử vong, giảm nhiều so với năm trước (năm 2023 ghi nhận 33,5 nghìn ca mắc; 4 ca tử vong). Bệnh Tay chân miệng 2.448 ca mắc (năm 2023 ghi nhận 2.706 ca mắc). Bệnh thủy đậu 884 ca mắc (năm 2023 ghi nhận 2.096 ca mắc). Bệnh uốn ván 18 ca mắc, 1 ca tử vong (năm 2023 ghi nhận 25 ca mắc, 3 ca tử vong). Bệnh liên cầu lợn 10 ca mắc, 1 ca tử vong (năm 2023 ghi nhận 15 ca mắc, 2 ca tử vong). Ho gà 241 ca mắc (năm 2023 không ghi nhận ca mắc). Bệnh sởi 165 ca mắc (năm 2023 không ghi nhận). Ngoài ra từ đầu đầu năm có 3 ca não mô cầu và 2 ca mắc viêm não Nhật Bản. Các dịch bệnh khác được kiểm soát, Thành phố chưa ghi nhận trường hợp mắc các dịch bệnh nguy hiểm, mới nổi, tái nổi như Cúm A/H5N1, bệnh do vi rút Marburg, Ebola, Mers-CoV, bệnh đậu mùa khỉ và viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn được Thành phố quan tâm, đẩy mạnh, tập trung cao điểm vào dịp Tết Nguyên đán Ất Tỵ và mùa Lễ hội đầu năm 2025. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, kém chất lượng, không rõ nguồn gốc dịp cuối năm 2024. Duy trì công tác bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP) dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố tại 100% xã, phường, thị trấn và các trường học trên địa bàn Thành phố. 6. Hoạt động văn hóa, thể thao Năm 2024, Thành phố đã tổ chức 3.021 sự kiện văn hóa, thể thao; Thủ đô được bình chọn là điểm đến văn hóa hàng đầu Việt Nam. Tại các di tích lịch sử thu hút lượng lớn khách đến tham quan và trải nghiệm với hơn 3,5 triệu lượt người, vượt kế hoạch năm, tăng 6,1% so với năm trước. Thể thao Hà Nội tiếp tục duy trì vị trí đứng đầu cả nước, góp phần quan trọng vào thành tích chung của Thể thao Việt Nam. Hoạt động văn hóa: Năm 2024, Thành phố đã phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức thành công nhiều sự kiện chính trị quan trọng của đất nước như Liên hoan phim quốc tế, các chương trình nghệ thuật với quy mô lớn. Công tác đầu tư tu bổ, tôn tạo di tích tiếp tục quan tâm; công tác quản lý Di sản văn hóa phi vật thể được chú trọng, đưa di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn Hà Nội vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Bên cạnh đó, Thành phố tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, biểu diễn nghệ thuật chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước và Thủ đô. Đặc biệt, dịp Kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 -10/10/2024), Thành phố đã ghi dấu ấn với người dân Thủ đô, bạn bè trong nước và quốc tế thông qua 2 sự kiến lớn: “Ngày hội Văn hóa vì hòa bình”; Lễ kỷ niệm cấp quốc gia kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô và 35 hoạt động có ý nghĩa khác. Cùng với đó, Thành phố thực hiện tuyên truyền, cổ động trực quan bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng trên 17,6 nghìn m² pano; 24,1 nghìn chiếc banner; 30,9 nghìn Quốc kỳ, Đảng kỳ; 88 cụm cờ; 23 cụm mô hình; 22 cụm logo hợp hồng kỳ, 5 cụm cột cờ, 1.100 hồng kỳ, nhiều bài viết, hình ảnh đẹp được đăng trên trang thông tin điện tử hanoicreative.com và hanoidep.vn... tạo không khí vui tươi, phấn khởi, niềm tự hào dân tộc của người dân Thủ đô, cũng như du khách trong nước và quốc tế đến tham quan Hà Nội. Lũy kế từ đầu năm đến nay, các di tích trên địa bàn Thành phố đã đón hơn 3,5 triệu lượt khách, tăng 6,1% so với năm trước; doanh thu phí 194 tỷ đồng, vượt 128% dự toán giao cả năm. Các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp tổ chức 3.021 buổi biểu diễn, trong đó 516 buổi biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đối ngoại; 2.505 buổi biểu diễn thu phí với số tiền 65,8 tỷ đồng, thu hút 1,1 triệu lượt khán giả. Hoạt động thể thao: Trong năm 2024, thành phố Hà Nội đã cử đi tập huấn trong nước: 43 đoàn, 196 huấn luyện viên, 1.012 vận động viên, 3 chuyên gia; tập huấn quốc tế: 10 đoàn, 11 huấn luyện viên, 93 vận động viên. Bên cạnh đó đã cử đi thi đấu trong nước: 152 đoàn, 720 huấn luyện viên, 4.138 vận động viên, 9 chuyên gia, 8 trọng tài; cử đi thi đấu quốc tế: 28 đoàn, 34 huấn luyện viên, 186 vận động viên, 2 chuyên gia, 1 trọng tài. Tính chung cả năm 2024, thể thao thành tích cao Hà Nội đạt được 3.369 huy chương các loại, trong đó: 327 huy chương tại các giải đấu quốc tế (128 huy chương Vàng, 99 huy chương Bạc, 100 huy chương Đồng) và 3.042 huy chương trong nước (1.136 huy chương Vàng, 911 huy chương Bạc, 995 huy chương Đồng). Trong thể thao quần chúng: Năm 2024 thành phố Hà Nội đã tổ chức 14 giải thể thao quần chúng, 28 giải thể thao các môn Hà Nội mở rộng và hội thi, hội thao, hội khỏe các ngành; tổ chức thi đấu 16 môn thể thao Hội khỏe Phù Đổng lần thứ X với sự tham gia của 7.814 vận động viên, Ban tổ chức đã trao 370 huy chương Vàng, 365 huy chương Bạc, 671 huy chương Đồng cho các vận động viên xuất sắc trong các môn thi đấu; tổ chức thi đấu 12 môn thể thao hè năm 2024 với 4.577 vận động viên tham dự, trao 279 huy chương Vàng, 277 huy chương Bạc, 483 huy chương Đồng cho các vận động viên xuất sắc. Bên cạnh đó, đoàn thể thao Hà Nội tham gia các Giải thể thao quần chúng toàn quốc đạt 26 huy chương. Cũng trong năm, Thành phố tổ chức 4 lớp tập huấn hướng dẫn viên cứu hộ, cấp 127 giấy chứng nhận cứu hộ trên địa bàn Hà Nội; 1 lớp hướng dẫn viên người cao tuổi với 82 giấy chứng nhận cho hướng dẫn viên người cao tuổi trên địa bàn. Triển khai 28 lớp dạy bơi miễn phí của Thành phố tại 22 quận, huyện, thị xã cho 4,2 nghìn trẻ; chỉ đạo tổ chức các lớp bơi hè cấp quận, huyện, thị xã cho 35 nghìn trẻ em tại địa phương. 7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Năm 2024, Thành phố tiếp tục bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cho nhân dân. Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm, các địa điểm lễ hội, vui chơi giải trí, những nơi tập trung đông người. Triển khai đồng bộ, toàn diện các biện pháp, giải pháp, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thành phố. Với quyết tâm chính trị cao nhất, công tác giữ gìn an ninh, trật tự được đảm bảo tuyệt đối an toàn, góp phần quan trọng cho các sự kiện chính trị, ngoại giao lớn của đất nước và Thủ đô. Theo số liệu tổng hợp từ Công an Thành phố, trong tháng Mười Hai trên địa bàn Hà Nội đã phát hiện 880 vụ phạm pháp hình sự, bắt giữ theo luật 933 đối tượng; phát hiện 10 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế, bắt giữ 37 đối tượng; 3 vụ cờ bạc, bắt giữ 13 đối tượng; 40 vụ vi phạm pháp luật về ma túy, bắt giữ 66 đối tượng; 16 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 18 đối tượng, tổng thu nộp ngân sách nhà nước hơn 1,4 tỷ đồng. Cộng dồn cả năm 2024, trên địa bàn Thành phố phát hiện 7,6 nghìn vụ phạm pháp hình sự, bắt giữ theo luật hơn 7,6 nghìn đối tượng; gần 3,2 nghìn vụ vi phạm pháp luật về kinh tế, bắt giữ 3,7 nghìn đối tượng; triệt phá 503 vụ cờ bạc, bắt giữ 2,4 nghìn đối tượng; phát hiện 3,1 nghìn vụ vi phạm pháp luật về ma túy, bắt giữ 4,9 nghìn đối tượng; xử lý 7,9 nghìn vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với hơn 7,9 nghìn đối tượng, thu nộp ngân sách nhà nước trên 47 tỷ đồng. Hà Nội với mật độ dân số cao và lưu lượng phương tiện lớn, Thành phố luôn đối mặt với những thách thức trong việc đảm bảo trật tự, an toàn giao thông. Trong tháng, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 132 vụ tai nạn giao thông làm 73 người chết và bị thương 96 người. Cộng dồn cả năm 2024, trên địa bàn Thành phố xảy ra 1.503 vụ tai nạn giao thông, làm 696 người chết và bị thương 1.228 người, trong đó: 1.483 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 681 người chết và bị thương 1.223 người; 20 vụ tai nạn đường sắt làm chết 15 người và bị thương 5 người (năm 2023 xảy ra 710 vụ tai nạn giao thông làm 370 người chết và 548 người bị thương). Để đảm bảo trật tự, an toàn giao thông trong dịp cao điểm cuối năm và Tết Nguyên đán Ất Tỵ, từ ngày 15/12/2024 Công an thành phố Hà Nội đã triển khai kế hoạch cao điểm kiểm tra, xử lý các vi phạm giao thông và phòng ngừa tội phạm. Nhằm đảm bảo giao thông thông suốt trên các tuyến đường trọng điểm, hạn chế tối đa tai nạn giao thông, bảo vệ an ninh trật tự những ngày cuối năm với lượng người và phương tiện tăng cao. Về phòng chống cháy nổ, tháng Mười Hai trên địa bàn Thành phố xảy ra 112 vụ cháy, không gây thiệt hại về người, trong đó có 21 vụ cháy trung bình và 90 vụ cháy nhỏ, các cơ quan chức năng đang tiếp tục xác minh nguyên nhân và đánh giá thiệt hại về tài sản do các vụ cháy gây ra. Cộng dồn cả năm 2024, trên địa bàn Thành phố xảy ra 1.238 vụ cháy, nổ làm 26 người chết và 14 người bị thương (năm 2023 xảy ra 251 vụ cháy làm 72 người chết và 55 người bị thương). Khái quát lại, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực diễn biến phức tạp, khó lường, hoạt động thương mại toàn cầu suy giảm đã tác động mạnh đến kinh tế - xã hội cả nước và thành phố Hà Nội, nhưng với sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị cùng sự chung sức, đồng lòng của cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân Thủ đô, năm 2024 kinh tế - xã hội Thành phố đã đạt những kết quả khá toàn diện trên nhiều lĩnh vực, Cụ thể: GRDP tăng 6,52% vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn vượt 24,7% dự toán và tăng 23,8% so với năm trước. Khu vực dịch vụ phục hồi tích cực, cung ứng hàng hóa đảm bảo, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng cao; chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được kiểm soát. Sản xuất công nghiệp nhanh chóng vượt qua khó khăn, giữ vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng thời tiết không thuận lợi nhưng vẫn duy trì ổn định, không xảy ra dịch bệnh lớn, bảo đảm nguồn cung lương thực, thực phẩm trên địa bàn. Các hoạt động du lịch, văn hóa nghệ thuật, thể dục, thể thao diễn ra sôi động; thị trường lao động việc làm, an sinh xã hội được đảm bảo và cải thiện. Năm 2025 có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là năm tăng tốc, bứt phá, về đích, năm cuối thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2021 - 2025), năm tổ chức đại hội Đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV và chuẩn bị, củng cố các yếu tố tạo nền tảng, tiền đề cho việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026 - 2030. Dự báo tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức; các cuộc xung đột quân chưa chấm dứt làm gia tăng tình trạng phân mảnh địa chính trị, địa kinh tế; biến đổi khí hậu, thiên tai diễn biến khó lường; tình hình thị trường bất động sản, tài chính, chứng khoán, trái phiếu trong nước có tín hiệu tích cực song vẫn còn khó khăn; áp lực lạm phát tăng cao; giá xăng dầu, nguyên vật liệu biến động mạnh, ảnh hưởng lớn đến nhiều ngành, lĩnh vực… tác động trực tiếp đến kinh tế cả nước và Thủ đô Hà Nội. Để hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội Thành phố giai đoạn 2021 - 2025, đòi hỏi các cấp, các ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; của Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố về thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, đồng thời tập trung thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau: Một là, chuẩn bị và tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025 - 2030; triển khai thực hiện đồng bộ, kịp thời, hiệu quả Luật Thủ đô 2024 đã được Quốc hội thông qua và Quy hoạch Thủ đô đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tập trung xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách có tính đột phá, hiệu quả, khả thi để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế; tăng cường công tác quản lý quy hoạch, quản lý đất đai, phát triển đô thị; tập trung xử lý, giải quyết triệt để, hiệu quả các vấn đề về ô nhiễm môi trường, xử lý rác thải, nước thải, không khí, hạ tầng giao thông. Hai là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân tối đa nguồn vốn đầu tư công, huy động tốt nguồn vốn tư nhân cho đầu tư phát triển. Tập trung đảm bảo chất lượng và tiến độ xây dựng các dự án lớn, công trình trọng điểm có tính đột phá và giá trị lan tỏa cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tạo thêm năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. Quan tâm thực hiện hiệu quả Đề án xây dựng nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp; dự án hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng giao thông, hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các dự án lĩnh vực giáo dục, y tế, tôn tạo di tích lịch sử. Ba là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến. Củng cố, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tập trung rà soát để kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho doanh nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi về tín dụng, giảm thuế, phí đất đai, xúc tiến thương mại. Đẩy nhanh tiến độ mở rộng hạ tầng khu Công nghiệp. Thu hút đầu tư đối với các dự án mới có quy mô lớn, công nghệ cao, tạo nhân tố mới tiềm năng để sản xuất công nghiệp của Thành phố tăng trưởng đột phá. Bốn là, tăng cường các biện pháp quản lý thị trường, kiểm soát tốt giá cả hàng hóa; bảo đảm cân đối cung - cầu thị trường; tăng cường kiểm tra phát hiện hàng giả, hàng kém chất lượng. Thực hiện các chương trình kết nối tiêu thụ sản phẩm chế biến, nông sản, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử. Tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch, phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch gắn liền với tiềm năng, lợi thế của Thủ đô. Năm là, các doanh nghiệp tăng cường gắn kết lưu thông với sản xuất, đẩy mạnh liên kết chuỗi nhằm kết nối cung cầu, mở rộng việc tiêu thụ trên các sàn thương mại điện tử; đảm bảo phân phối sản phẩm hàng hóa gắn với quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm; thúc đẩy mạnh mẽ mô hình chuỗi liên kết phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp và xuất khẩu... Đồng thời, tiếp tục tìm kiếm và tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chủ động áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh. Sáu là, kiểm soát tốt dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm nhằm đảm bảo cung cấp thực phẩm tiêu dùng; tiếp tục thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng diện tích trồng lúa chất lượng cao, cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị kinh tế. Bám sát khung thời vụ, đồng thời theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, chủ động phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ nhằm hạn chế tối đa thiệt hại. Tiếp tục phát triển nông thôn, xây dựng nông thôn mới, thực hiện chương trình mỗi xã một sản phẩm. Bảy là, thực hiện tốt công tác an sinh, phúc lợi xã hội, lao động, việc làm; quan tâm, chăm sóc chu đáo đối với người có công, đối tượng trợ giúp xã hội, hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng chính sách thường xuyên và đột xuất. Nâng cao vai trò, trách nhiệm, tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ và cứu nạn, cứu hộ trên địa bàn thành phố Hà Nội./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng Mười Một và 11 tháng năm 2024
- 02/12/2024 20:22
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 1.1. Nông nghiệp Hoạt động trồng trọt trong tháng tập trung vào thu hoạch lúa, cây màu vụ Mùa và gieo trồng cây màu vụ Đông. Tính đến ngày 20/11/2024, toàn Thành phố đã thu hoạch xong 62,2 nghìn ha lúa vụ Mùa, bằng 85,9% (giảm 10,2 nghìn ha) so với vụ Mùa năm trước; năng suất lúa trên diện tích gieo trồng sơ bộ đạt 49,2 tạ/ha, giảm 8,9 tạ/ha (năng suất thu hoạch đạt 56,8 tạ/ha, giảm 1,3 tạ/ha) chủ yếu do tác động của cơn bão số 3 (YAGI) với cường độ mạnh, sức tàn phá lớn và hoàn lưu sau bão gây mưa ngập lụt tại một số địa phương làm ảnh hưởng nặng nề đến diện tích thu hoạch và năng suất cây trồng. Tiến độ gieo trồng cây màu vụ Đông năm nay, tính đến trung tuần tháng Mười Một Thành phố đã trồng được 13,8 nghìn ha rau, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước; 4,6 nghìn ha ngô, bằng 96,6%; 617 ha khoai lang, bằng 97,2%; 651 ha đậu tương, bằng 98,6%; 164 ha đậu, tăng 64%; 137 ha lạc, bằng 79,2%. Trong thời gian gần đây, nhiều tỉnh, thành phố xuất hiện dịch tả lợn châu Phi với nguy cơ lây lan diện rộng và diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, các ngành chức năng của thành phố Hà Nội thực hiện giám sát chặt chẽ dịch bệnh tại cơ sở chăn nuôi trên địa bàn, tăng cường kiểm tra, áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, sát trùng, tiêu độc, kịp thời phát hiện, khoanh vùng và xử lý nhanh gọn khi có dịch bệnh xảy ra. Tổ chức tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn thịt, đồng thời tuyên truyền sâu, rộng đến các hộ chăn nuôi về mức độ nguy hiểm của dịch bệnh và công tác phòng chống dịch. Chăn nuôi trong tháng phát triển ổn định, tiếp tục có sự phục hồi và tăng đàn nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cao của thị trường những tháng cuối năm. Đàn trâu hiện có 29,5 nghìn con, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 124,5 nghìn con, giảm 2,4%; đàn lợn 1,48 triệu con, tăng 0,8%; đàn gia cầm 42,5 triệu con, tăng 1,4% (đàn gà 28,5 triệu con, tăng 1,9%). Tính chung 11 tháng năm 2024, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 1.953 tấn, tăng 2% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò đạt 9.726 tấn, giảm 0,1%; thịt lợn đạt 239,8 nghìn tấn, tăng 3,4%; thịt gia cầm đạt 153,9 nghìn tấn, tăng 3,6% (thịt gà 115,8 nghìn tấn, tăng 4%); trứng gia cầm 2.711 triệu quả, tăng 5%. 1.2. Lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung vào công tác chăm sóc, bảo vệ rừng, thu hoạch gỗ và lâm sản. Tháng Mười Một sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2.110 m3, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi đạt 77 ste, tăng 4,1%. Tính chung 11 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 119 ha, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 630 nghìn cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 20,7 nghìn m3, giảm 3,8%; sản lượng củi đạt 755 ste, tăng 3,7%. Sản lượng thủy sản tháng Mười Một ước đạt 11,6 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng cá), tăng 3,6% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 11,5 nghìn tấn, tăng 3,6%; thủy sản khai thác 111 tấn, giảm 1,8%. Tính chung 11 tháng năm 2024, tổng sản lượng thủy sản đạt 115,6 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 114 nghìn tấn, tăng 3,6%; thủy sản khai thác 1.594 tấn, giảm 1,4%. 2. Sản xuất công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Mười Một ước tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 7,3% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,6% và tăng 7,3%; sản xuất và phân phối điện giảm 8,9% và tăng 7,7%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải giảm 2,1% và tăng 7,1%; ngành khai khoáng giảm 3,3% và giảm 4,3%. Ước tính 11 tháng năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,4%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 10,5%; công nghiệp khai khoáng tăng 0,3%. Trong 11 tháng năm 2024, hầu hết các ngành chế biến, chế tạo đạt mức tăng khá so với cùng kỳ như: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 26,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 9,8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,8%; sản xuất trang phục tăng 8,6%; chế biến thực phẩm tăng 8,1%; sản xuất điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 7,7%. Hai ngành sản xuất có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 4,4%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 1,7%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ước đến cuối tháng 11/2024 tăng 0,2% so với tháng trước và tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước giảm 4,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 1,1%; khu vực Nhà nước tăng 1,6%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 1,1% (trong đó sản xuất chế biến thực phẩm giảm 19,2%; dệt giảm 8,7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 6,5%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy giảm 3,9%); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2%; ngành khai khoáng tăng 18,2%. 3. Thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Mười Một ước tính đạt 8.920 tỷ đồng, tăng 11,2 % so với thực hiện tháng trước và tăng 54,7% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 3.619 tỷ đồng, tăng 15,6% và tăng 36%; vốn NSNN cấp huyện 4.900 tỷ đồng, tăng 8,3% và tăng 67,3%; vốn NSNN cấp xã 401 tỷ đồng, tăng 9,2% và gấp 2,2 lần. Tính chung 11 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý thực hiện được 62,3 nghìn tỷ đồng, tăng 38,2% so với cùng kỳ năm trước và đạt 75,2% kế hoạch năm 2024, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 24,1 nghìn tỷ đồng, tăng 32% và đạt 66,9%; vốn NSNN cấp huyện 35,4 nghìn tỷ đồng, tăng 39,9% và đạt 81,5%; vốn NSNN cấp xã 2,8 nghìn tỷ đồng, tăng 82,9% và đạt 83,7%. Tình hình thực hiện một số dự án trọng điểm trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Dự án xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội thuộc nhóm dự án quan trọng quốc gia. Tuyến đường đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có tổng chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng, tổng khối lượng giải phóng mặt bằng 1.386 ha, trên tuyến xây dựng 3 cầu lớn vượt Sông Hồng, Sông Đuống và 8 nút giao khác. Sau hơn 1 năm khởi công, đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội đang dần hình thành, đã giải ngân 11,6% kế hoạch vốn. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 43,6% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 10,1% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 11% kế hoạch vốn. Dự án hệ thống xử lý nước thải Yên Xá thành phố Hà Nội: Có mức đầu tư 16,3 nghìn tỷ đồng, trong đó, 84,1% vốn vay ODA từ Chính phủ Nhật Bản. Dự án bao gồm một nhà máy xử lý nước thải với công suất 270 nghìn m³/ngày đêm và tuyến cống gom nước thải dọc sông Tô Lịch, sông Lừ, sông Sét, một phần sông Nhuệ với diện tích phục vụ khoảng 4.874 ha. Đến nay hệ thống dẫn nước thải từ sông Tô Lịch về nhà máy trên để xử lý đã hoàn thành 90% khối lượng, ngày 01/12/2024 Nhà máy Xử lý nước thải Yên Xá đi vào vận hành thử nghiệm. 4. Đăng ký doanh nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài 4.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Mười Một, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 2.095 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 22% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 31,9 nghìn tỷ đồng, giảm 48,6%; 651 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 7,1%; 1.074 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 7,7%; 434 doanh nghiệp giải thể, tăng 44,2%. Tính chung 11 tháng năm 2024, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 27,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 276,7 nghìn tỷ đồng, giảm 6,9% về số lượng doanh nghiệp và giảm 13,8% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 9,1 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 12,7%; 22,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 18,2%; hơn 4,3 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 29,2%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 4.2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Tháng Mười Một, thành phố Hà Nội thu hút 152 triệu USD vốn FDI, trong đó: 25 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 16,8 triệu USD; có 20 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 99 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần 21 lượt, đạt 36,2 triệu USD. Tính chung 11 tháng năm 2024, toàn Thành phố thu hút 1,8 tỷ USD vốn FDI, trong đó: Đăng ký cấp mới 258 dự án với số vốn đạt 1,2 tỷ USD; 180 lượt tăng vốn đầu tư với 283,2 triệu USD; 213 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 341,1 triệu USD. 5. Hoạt động thương mại, dịch vụ 5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Trong tháng, Thành phố tiếp tục quan tâm đẩy mạnh công tác bình ổn giá, liên kết vùng, xúc tiến thương mại, thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Thành phố đã chủ trì, phối hợp tổ chức nhiều hoạt động xúc tiến, tiêu thụ, kết nối giao thương các sản phẩm hàng hóa, nông sản tại thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lâm Đồng, Sóc Trăng, Vĩnh Long, Đồng Nai, Cà Mau, Bạc Liêu; tiếp tục phối hợp cung cấp thông tin kết nối sản phẩm các tỉnh, thành phố (Cần Thơ, Bình Thuận, Trà Vinh…) đến các hệ thống phân phối trên địa bàn Hà Nội, góp phần đảm bảo cung - cầu hàng hóa tăng cao cuối năm và chuỗi sự kiện kích cầu tiêu dùng nội địa mua sắm dịp Black Friday 2024. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Một ước tính đạt 80,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 50,4 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% và tăng 12,8%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 11,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 5,6%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,7 nghìn tỷ đồng, tăng 1,1% và tăng 33,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 15,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% và tăng 11,2%. Tính chung 11 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 780,1 nghìn tỷ đồng, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 492,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,1% tổng mức và tăng 11,1% (đá quý, kim loại quý tăng 35,3%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 13%; lương thực, thực phẩm tăng 12,8%; hàng may mặc tăng 10,5%; xăng dầu tăng 10%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 8,6%; ô tô con tăng 8,5%; hàng hóa khác tăng 12%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 107,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,7% và tăng 10,7% (dịch vụ lưu trú tăng 31,4%; dịch vụ ăn uống tăng 8,5%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 26,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,4% và tăng 39,6%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 154,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,8% và tăng 6,8%. 5.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Tổng doanh thu hoạt động vận tải, dịch vụ hỗ trợ và bưu chính chuyển phát tháng Mười Một ước đạt 20,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với tháng trước và tăng 22% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, tổng doanh thu ước đạt 203,1 nghìn tỷ đồng, tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận chuyển hành khách: Tháng Mười Một, hoạt động vận chuyển hành khách tiếp tục tăng trưởng khá. Số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 37 triệu lượt người, tăng 1,2% so với tháng trước và tăng 18,8% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1,1 tỷ lượt người.km, tăng 1,2% và tăng 6,4%; doanh thu ước tính đạt 2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,2% và tăng 14,2%. Tính chung 11 tháng năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 386,7 triệu lượt người, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 11,5 tỷ lượt người.km, tăng 12,2%; doanh thu đạt 20,4 nghìn tỷ đồng, tăng 16,1%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Mười Một ước tính đạt 144,9 triệu tấn, tăng 1,4% so với tháng trước và tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 14,2 tỷ tấn.km, tăng 3,2% và tăng 13,1%; doanh thu ước tính đạt 8,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2% và tăng 13,2%. Tính chung 11 tháng năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,5 tỷ tấn, tăng 15,0% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 144,8 tỷ tấn.km, tăng 12,6%; doanh thu đạt 84,8 nghìn tỷ đồng, tăng 14,2%. Doanh thu hoạt động kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng Mười Một ước tính đạt 9,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 33,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, doanh thu đạt 85,7 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Mười Một ước tính đạt 1,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 21,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, doanh thu đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2023. 5.3. Hoạt động du lịch Những tháng cuối năm, ngành Du lịch Thủ đô đưa ra nhiều chương trình kích cầu du lịch nội địa; các doanh nghiệp du lịch, lữ hành mở bán nhiều Chương trình Du lịch Tết Ất Tỵ 2025 với đa dạng sự lựa chọn và mức giá khuyến mãi tốt nhất thông qua việc khuyến khích đăng ký sớm, tạo sức hút khách đặt tour, tăng sức mua tour du lịch dịp nghỉ Lễ dài ngày cuối năm. Đồng thời, Thành phố xây dựng đa dạng các hình thức truyền thông trên các nền tảng số, Website, nền tảng mạng xã hội và các hình thức tuyên truyền quảng bá khác phù hợp trên không gian mạng nhằm tạo sức lan tỏa lớn và thu hút khách đến Hà Nội. Nhiều Chương trình Lễ hội lớn được tổ chức trong tháng như Lễ hội Thiết kế Sáng tạo Hà Nội khơi gợi sự quan tâm, tìm hiểu và niềm tự hào của người dân và công chúng về di sản của Hà Nội; Lễ hội văn hóa ẩm thực Hà Nội năm 2024 tôn vinh, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, ẩm thực truyền thống của Thủ đô Hà Nội, tạo nguồn lực phát triển, xây dựng và khai thác có hiệu quả thương hiệu văn hóa, ẩm thực, qua đó khẳng định vị thế của Hà Nội là điểm đến ẩm thực hấp dẫn tới bạn bè trong nước, khu vực và quốc tế. Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội tháng Mười Một ước đạt 677 nghìn lượt người, tăng 13,8% so với tháng trước và tăng 26% so với cùng kỳ năm trước; tính chung 11 tháng năm 2024 khách du lịch đến Hà Nội ước đạt 5.795 nghìn lượt người, tăng 28,4% so với cùng kỳ năm trước. Khách quốc tế tháng Mười Một ước đạt 495 nghìn lượt người, tăng 19% so với tháng trước và tăng 32,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, khách quốc tế ước đạt 4.027 nghìn lượt người, tăng 36,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 462,1 nghìn lượt người, tăng 8,8%; Trung Quốc 455,9 nghìn lượt người, tăng 68,1%; Mỹ 254,7 nghìn lượt người, tăng 22,8%; Nhật Bản 240,9 nghìn lượt người, tăng 21,2%; Anh 212,2 nghìn lượt người, tăng 39%; Pháp 193,4 nghìn lượt người, tăng 52,9%; Đức 142,5 nghìn lượt người, tăng 46,1%; Ma-lai-xi-a 105,5 nghìn lượt khách, tăng 8,6%; Xin-ga-po 87,3 nghìn lượt người, tăng 3,6%; Canada 70,8 nghìn lượt người, tăng 27,3%. Khách du lịch nội địa tháng Mười Một ước đạt 182 nghìn lượt người, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, khách du lịch nội địa đến Hà Nội ước đạt 1.768 nghìn lượt người, tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước. 5.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Mười Một ước tính đạt 1,8 tỷ USD, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 28,7% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 1 tỷ USD, tăng 2,1% và tăng 30,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 766 triệu USD, tăng 1,1% và tăng 26,1%. Trong tháng, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 290 triệu USD, tăng 55,8%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 268 triệu USD, tăng 92%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 236 triệu USD, tăng 35,5%; hàng dệt may đạt 205 triệu USD, tăng 25%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 72 triệu USD, tăng 4,7%; hàng hóa khác đạt 440 triệu USD, tăng 21%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 126 triệu USD, giảm 7,8%; hàng nông sản đạt 91 triệu USD, giảm 6,7%; giày dép và sản phẩm từ da đạt 31 triệu USD, giảm 18,3%. Tính chung 11 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 17,6 tỷ USD, tăng 15,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 10,3 tỷ USD, tăng 18,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 7,3 tỷ USD, tăng 12,1%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 2,6 tỷ USD, tăng 25,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,2 tỷ USD, tăng 28,5%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 2,2 tỷ USD, tăng 13,9%; hàng dệt may đạt 2,1 tỷ USD, tăng 10,2%; hàng nông sản đạt 1,3 tỷ USD, tăng 34,9%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 724 triệu USD, tăng 3,6%; hàng hóa khác đạt 4,3 tỷ USD, tăng 13,2%. Riêng nhóm hàng giầy dép và sản phẩm từ da đạt 326 triệu USD, giảm 8,6% so với cùng kỳ năm 2023. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Mười Một ước tính đạt 3,7 tỷ USD, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 0,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 1,9% và giảm 0,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 617 triệu USD, tăng 1,2% và tăng 11,1%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 730 triệu USD, tăng 1,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 336 triệu USD, gấp 2,4 lần cùng kỳ; sắt thép đạt 261 triệu USD, tăng 48,9%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 239 triệu USD, tăng 15,4%; kim loại đạt 129 triệu USD, tăng 33,4%; chất dẻo đạt 119 triệu USD, tăng 5,6%; vải đạt 87 triệu USD, tăng 2,4%; sản phẩm hóa chất đạt 81 triệu USD, tăng 15,1%. Trong tháng, kim ngạch nhập khẩu xăng dầu đạt 404 triệu USD, giảm 2,6% so với cùng kỳ; hàng hóa khác đạt 1,1 tỷ USD, giảm 24,4%. Tính chung 11 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 37,3 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 31,1 tỷ USD, tăng 10,4%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đạt 6,2 tỷ USD, tăng 7,8%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn như: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 6,6 tỷ USD, tăng 16,8%; xăng dầu đạt 4,3 tỷ USD, giảm 11,3%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 2,4 tỷ USD, tăng 15%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 2,4 tỷ USD, tăng 43,2%; sắt thép đạt 2,1 tỷ USD, tăng 26,5%; kim loại đạt 1,4 tỷ USD, tăng 46,7%; chất dẻo đạt 1,2 tỷ USD, tăng 6,3%; hàng hóa khác đạt 12,8 tỷ USD, tăng 6%. 6. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 11/2024 giảm 0,05% so với tháng trước, tăng 2,18% so với tháng 12/2023 và tăng 2,08% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 11 tháng năm nay tăng 4,37% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Trong tháng Mười Một, 4/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm hàng ăn, dịch vụ ăn uống giảm 0,94%, tác động làm CPI giảm 0,29% chủ yếu do giá thực phẩm giảm 1,5% (trong đó giá thịt lợn giảm 1,51%; thịt gia cầm giảm 0,95%; các mặt hàng thủy hải sản giảm 0,2%; nhóm rau tươi, khô và chế biến giảm mạnh 8,75%). Các nhóm hàng: Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,16%; nhóm văn hóa, giải trí, du lịch giảm 0,12%; nhóm giao thông giảm 0,09% cùng tác động làm giảm CPI chung 0,03%. Cũng trong tháng Mười Một, 6/11 nhóm hàng CPI tăng so với tháng trước: Nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 1,12%, tác động làm CPI tăng 0,23% (trong đó giá tiền thuê nhà tăng 0,7%; vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,42%); nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,33%, tác động làm CPI tăng 0,02%. Các nhóm còn lại tăng nhẹ không tác động nhiều đến CPI chung: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,24%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,05%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,23%. Riêng nhóm giáo dục tương đương tháng trước. Bình quân 11 tháng năm 2024, CPI tăng 4,37% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 18,04% (tác động làm CPI bình quân chung 11 tháng năm nay tăng 1,43%) do 3 tháng đầu năm 2024 các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,07% (tác động làm CPI tăng 1,23%) do giá nước sạch tăng 26,73%; giá điện tăng 7,71%; giá nhà thuê tăng 8,32%. Thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,24% (tác động làm CPI tăng 0,27%); Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,38% (tác động làm CPI tăng 1,05%) do giá lương thực tăng 10,63% (trong đó giá gạo tăng 14,36%); thực phẩm tăng 2,59%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,83%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,41% (tác động làm CPI tăng 0,05%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,69% (tác động làm CPI tăng 0,10%); văn hóa, giải trí, du lịch tăng 1,53% (tác động làm CPI tăng 0,07%); giao thông tăng 0,63% (tác động làm CPI tăng 0,06%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,18% (tác động làm CPI tăng 0,01%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,56% (tác động làm CPI tăng 0,23%) chủ yếu do giá vàng cao dẫn đến giá đồ trang sức tăng 32,22% và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 24,90%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,21% (tác động làm CPI giảm 0,04%). Chỉ số giá vàng tháng Mười Một tăng 3,26% so với tháng trước, tăng 39,86% so với tháng 12/2023 và tăng 45,70% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 32,64% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Mười Một tăng 1,73% so với tháng trước, tăng 4,33% so với tháng 12/2023 và tăng 3,57% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 11 tháng năm 2024, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 4,88% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. 7. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán 7.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 11 tháng năm 2024 ước thực hiện 447,2 nghìn tỷ đồng, vượt 9,5% dự toán năm và tăng 18,3% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Thu nội địa 416,6 nghìn tỷ đồng, vượt 10,1% dự toán và tăng 18,5%; thu từ dầu thô 3,8 nghìn tỷ đồng, vượt 26,6% và bằng 92,2%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 26,5 nghìn tỷ đồng, đạt 98,1% và tăng 20,8%. Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 11 tháng năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 66,8 nghìn tỷ đồng, đạt 94,7% dự toán năm và tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 28,4 nghìn tỷ đồng, vượt 6,4% và tăng 10,4%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 83,4 nghìn tỷ đồng, vượt 6,1% và tăng 20,5%; thuế thu nhập cá nhân 45,6 nghìn tỷ đồng, vượt 11,2% và tăng 25%; thu tiền sử dụng đất 35,2 nghìn tỷ đồng, đạt 97,4% và gấp 3 lần cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 6,8 nghìn tỷ đồng, vượt 4,9% và tăng 15,6%; thu phí và lệ phí 21,8 nghìn tỷ đồng, vượt 11,9% và tăng 23,8%. Chi ngân sách địa phương 11 tháng năm 2024 ước thực hiện 90 nghìn tỷ đồng, đạt 61,5% dự toán năm và tăng 21,2% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chi đầu tư phát triển 43,1 nghìn tỷ đồng, đạt 53,2% dự toán và tăng 28,9%; chi thường xuyên 46,9 nghìn tỷ đồng, đạt 81,9% và tăng 14,8%.7.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Tình hình thực hiện lãi suất: Trong 11 tháng năm 2024, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định, lãi suất huy động tương đối ổn định, mặt bằng lãi suất huy động ở mức thấp. Thời điểm tháng 11/2024 lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước phổ biến ở mức 0,1 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 1,6 - 4,75%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 2,0 - 5,6%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 4,5 - 6,3%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,7 - 9,1%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,8%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Các NHTM trên địa bàn tiếp tục tiết giảm chi phí, thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 11/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.677 nghìn tỷ đồng, tăng 0,52% so với cuối tháng trước và tăng 6,39% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó tiền gửi đạt 5.022 nghìn tỷ đồng, tăng 0,58% và tăng 7,53%; phát hành giấy tờ có giá đạt 655 nghìn tỷ đồng, tăng 0,04% và giảm 1,61%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 11/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.282 nghìn tỷ đồng, tăng 0,79% so với cuối tháng trước và tăng 18,38% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 1.873 nghìn tỷ đồng, tăng 0,93% và tăng 24,44%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.409 nghìn tỷ đồng, tăng 0,68% và tăng 14,07%. Tính đến cuối tháng 11/2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,72% trong tổng dư nợ. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 13,68% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,89%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,13%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,31%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%, cho vay chứng khoán chiếm 0,53%. 7.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết ngày 25/11/2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.198 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 313 doanh nghiệp và Upcom có 885 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 622,7 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% so với cuối tháng trước và tăng 5,4% so với cùng thời điểm năm trước, trong đó HNX đạt 158,6 nghìn tỷ đồng, tăng 0,01% và giảm 0,86%; Upcom đạt 464,1 nghìn tỷ đồng, tăng 1% và tăng 7,7%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch ngày 25/11/2024 đạt 1.827 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% so với cuối tháng trước và tăng 35,7% so cùng thời điểm năm trước, trong đó HNX đạt 313,5 nghìn tỷ đồng, giảm 1,6% và tăng 3,3%; Upcom đạt 1.514 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% và tăng 45,1%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tính đến hết giao dịch ngày 25/11/2024, khối lượng trung bình 1 ngày/tháng đạt 49,7 triệu CP được chuyển nhượng, giảm 8,3% so với trung bình tháng trước và giảm 53,5% so với trung bình cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 0,9 nghìn tỷ đồng, giảm 11,3% và giảm 56%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh trung bình 1 ngày/tháng đạt 41,5 triệu CP, giảm 9% và giảm 58,9%; giá trị đạt 0,8 nghìn tỷ đồng, giảm 10,5% và giảm 60,4%. Tính đến hết giao dịch ngày 25/11/2024, khối lượng giao dịch chung 11 tháng năm 2024 đạt 16,8 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 335,3 nghìn tỷ đồng, giảm 24,9% về khối lượng và giảm 10,7% về giá trị so với cùng kỳ năm 2023. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Mười, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 196 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 35 mã giao dịch; cá nhân 161 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 10 tháng năm 2024 đạt 1.429 nghìn tài khoản. 8. Một số vấn đề xã hội 8.1. Giải quyết việc làm Theo Báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, trong tháng Mười Một, Thành phố giải quyết việc làm cho hơn 16,9 nghìn lao động, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, Thành phố giải quyết việc làm cho 213,2 nghìn lao động, vượt 29,1% kế hoạch năm và tăng 6,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó 53,3 nghìn lao động được tạo việc làm từ nguồn vốn ngân sách Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội với số tiền 3.925 tỷ đồng; 17,4 nghìn lao động nhận được việc làm sau khi phỏng vấn tại các phiên, sàn giao dịch việc làm; trên 4,4 nghìn lao động được giải quyết việc làm qua hình thức xuất khẩu lao động; 138,1 nghìn lao động nhận được việc từ dịch vụ cung ứng việc làm của các doanh nghiệp và qua các hình thức khác. Cũng trong tháng Mười Một, Thành phố ra quyết định trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp cho 5,7 nghìn người với số tiền hỗ trợ 193 tỷ đồng, giảm 15% về số người và giảm 2,2% số tiền so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 11 tháng năm 2024, quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 70,4 nghìn người với số tiền hỗ trợ 2.171 tỷ đồng, giảm 10,5% về số người và giảm 1,1% số tiền; 100% người thất nghiệp được tư vấn hỗ trợ việc làm mới, trong đó hỗ trợ học nghề cho hơn 1 nghìn người có hoàn cảnh khó khăn với số tiền 4,2 tỷ đồng. 8.2. Bảo đảm an sinh xã hội Tháng Mười Một, công tác đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội tiếp tục được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện. Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 782 hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công, thân nhân người có công và các đối tượng liên quan, cộng dồn 11 tháng năm 2024 Thành phố giải quyết trên 10,2 nghìn hồ sơ với kinh phí trên 2,3 nghìn tỷ đồng, trong đó thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp cho 78.521 người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 1.991 tỷ đồng; chi trả trợ cấp một lần 175 tỷ đồng; chi quà Lễ, Tết 71 tỷ đồng; chi điều dưỡng 94,2 tỷ đồng. Công tác trợ giúp xã hội và hỗ trợ đột xuất: Hiện nay trên địa bàn Thành phố có 203 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Các quận, huyện, thị xã đã chi trả trợ cấp đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng, công khai, minh bạch cho các đối tượng với tổng kinh phí chi trả 11 tháng năm 2024 là 1.613 tỷ đồng. Tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố đang thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.080 người (gồm người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác) với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,8 triệu đồng/người/tháng, trẻ em dưới 4 tuổi là 2,2 triệu đồng/tháng và chi khác 350 nghìn đồng/tháng. Bên cạnh đó, công tác thăm hỏi và hỗ trợ đột xuất từ đầu năm đến nay là 870,2 triệu đồng. Về thực hiện phong trào Đền ơn đáp nghĩa: Thành phố đã vận động Quỹ Đền ơn đáp nghĩa 36,1 tỷ đồng, vượt 55% kế hoạch; tặng 1.855 sổ tiết kiệm “Tình nghĩa” với kinh phí 5,5 tỷ đồng, vượt 49% kế hoạch; tu sửa nâng cấp 58 công trình ghi công liệt sĩ với kinh phí 160,6 tỷ đồng, vượt 87% kế hoạch; vận động xã hội hóa cho việc tu sửa nâng cấp 192 nhà ở cho người có công với cách mạng, kinh phí trên 7,6 tỷ đồng, vượt 44,4 % kế hoạch; 57 Mẹ Việt Nam anh hùng đang được các cơ quan đơn vị phụng dưỡng. Đối tượng người có công, cá nhân, tập thể tiêu biểu được nhận 299,6 nghìn suất quà với số tiền 237,8 tỷ đồng; thực hiện điều dưỡng tập trung đối với 18,4 nghìn lượt người có công và thân nhân với tổng kinh phí trên 81,5 tỷ đồng. 8.3. Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp Năm 2024, kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 94,5% dân số; tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 45% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,5%; số người tham gia Bảo hiểm (BH) thất nghiệp đạt 40% lực lượng lao động. Theo Báo cáo của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, tính đến 30/11/2024 trên địa Thành phố tỷ lệ bao phủ BHYT đạt 95,5% dân số (vượt 1% so với kế hoạch) với 8.135 nghìn người tham gia, tăng 2,4% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.146 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc, chiếm 45,9% lực lượng trong độ tuổi lao động (vượt 0,9% so kế hoạch), tăng 4,3% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm trước. Hơn 103 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chưa bao gồm các trường hợp đang bảo lưu thời gian tham gia BHXH), chiếm 2,9% lực lượng lao động trong độ tuổi, vượt 0,4% kế hoạch, tăng 25,6% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 27,3% so với cùng kỳ năm trước. Số người tham gia BH thất nghiệp là 2.078 nghìn người, chiếm 44,4% lực lượng lao động trong độ tuổi, vượt 4,4% kế hoạch, tăng 4,4% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính đến cuối tháng 11/2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BH thất nghiệp là 62,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8.658 tỷ đồng (tăng 16,1%) so với cùng kỳ năm 2023. Tổng chi BHXH, BHYT, BH thất nghiệp là 71,8 nghìn tỷ đồng, tăng 8.012 tỷ đồng (tăng 12%) so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Chi lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng là 41,3 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 23,3 nghìn tỷ đồng. 8.4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề Tháng Mười Một, ngành Giáo dục và Đào tạo Thủ đô tổ chức nhiều hoạt động Kỷ niệm 70 năm thành lập Ngành Giáo dục và Đào tạo Thủ đô, chào mừng 42 năm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 nhằm tôn vinh, tri ân những nỗ lực, đóng góp của đội ngũ giáo viên trong sự nghiệp phát triển Giáo dục và Đào tạo. Trong dịp này, Thành phố đã tổ chức Lễ tổng kết, trao giải cuộc thi “Nhà giáo Hà Nội tâm huyết, sáng tạo” cho 70 nhà giáo tiêu biểu xuất sắc ở các cấp học có nhiều tâm huyết, sáng tạo vượt qua khó khăn cống hiến đóng góp cho sự nghiệp “trồng người”; trao thưởng cuộc thi “Thầy cô trong mắt em” cho các học sinh đạt giải với 01 giải Đặc biệt, 10 giải Nhất, 20 giải Nhì và 39 giải Ba, cuộc thi là dịp để học sinh trong các trường học, cơ sở giáo dục thể hiện tình cảm, lòng biết ơn và tri ân đối với thầy cô giáo mà mình yêu quý, trân trọng, cảm phục, hướng tới xây dựng trường học hạnh phúc. Tính đến tháng 11/2024, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 65,1%, trong đó: Mầm non đạt 56,6%; tiểu học 73,1%; trung học cơ sở 81,7%; trung học phổ thông 37,1%. Thành phố tiếp tục triển khai Kế hoạch xây dựng, phấn đấu đến cuối năm 2024 hoàn thành chỉ tiêu công nhận mới 114 trường công lập đạt chuẩn quốc gia và công nhận lại 300 trường đạt chuẩn. Về giáo dục nghề nghiệp: Hoàn thiện xây dựng Đề án nâng cao chất lượng hoạt động các trường trung cấp, cao đẳng công lập Thành phố giai đoạn 2025-2030, định hướng đến năm 2035, trong đó có nội dung sắp xếp lại các trường trung cấp, cao đẳng công lập thuộc Thành phố theo đúng chỉ đạo, quy hoạch của Trung ương và Thành phố. Đến nay trên địa bàn Hà Nội có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở đăng ký hoạt động giáo dục nghề, trong đó: 66 trường cao đẳng, 59 trường trung cấp, 38 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, 18 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 132 doanh nghiệp, loại hình khác. Tính chung 11 tháng năm 2024, các cơ sở có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Thành phố đã tuyển sinh, đào tạo nghề cho 239,2 nghìn lượt người (trong đó 29,6 nghìn người trình độ cao đẳng; 28,2 nghìn người trình độ trung cấp; 181,4 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng), vượt 1,8% kế hoạch tuyển sinh năm 2024, tăng 2,4% so với cùng kỳ năm 2023. Có hơn 197 nghìn học sinh, sinh viên tốt nghiệp (cao đẳng 17,1 nghìn người; trung cấp 18,3 nghìn người; sơ cấp và dưới 3 tháng 161,6 nghìn người), tăng 0,5%. Số học sinh, sinh viên tốt nghiệp trong năm đã góp phần cung cấp nguồn lao động qua đào tạo cho thị trường lao động tại Thành phố và các tỉnh lân cận. 8.5. Tình hình dịch bệnh Theo số liệu của Sở Y tế Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 14/10 đến ngày 14/11/2024 tình hình dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue có xu hướng tăng cao, trong tháng ghi nhận 2.583 ca mắc, gấp 2,2 lần tháng trước; cộng dồn 11 tháng năm 2024 ghi nhận 6.743 ca mắc (cùng kỳ năm 2023 ghi nhận 33,5 nghìn ca mắc; 4 ca tử vong). Bệnh Tay chân miệng 182 ca mắc, giảm 43 ca so tháng trước; cộng dồn có 2.368 ca mắc (cùng kỳ 2.566 ca mắc). Ho gà ghi nhận 3 ca mắc, giảm 5 ca so với tháng trước; cộng dồn 11 tháng có 239 ca mắc (cùng kỳ không ghi nhận ca mắc). Bệnh liên cầu lợn trong tháng không ghi nhận ca mắc; cộng dồn 11 tháng ghi nhận 9 ca mắc, 1 ca tử vong (cùng kỳ 15 ca mắc, 2 ca tử vong). Bệnh thủy đậu 80 ca mắc, tăng 24 ca so tháng trước; cộng dồn 11 tháng 884 ca mắc (cùng kỳ 2.022 ca mắc). Bệnh uốn ván 1 ca mắc, cộng dồn 11 tháng ghi nhận 18 ca mắc, 1 ca tử vong (cùng kỳ 22 ca mắc, 2 ca tử vong). Bệnh sởi có xu hướng tăng, trong tháng ghi nhận 64 ca mắc, cộng dồn 11 tháng ghi nhận 87 ca (cùng kỳ không ghi nhận). Ngoài ra cộng dồn từ đầu đầu năm có 1 ca mắc rubella, 2 ca não mô cầu và 2 ca mắc viêm não Nhật Bản. Các dịch bệnh khác được kiểm soát, Thành phố chưa ghi nhận trường hợp mắc bệnh đậu mùa khỉ và bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được Thành phố quan tâm. Thành phố đẩy mạnh các biện pháp kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Duy trì công tác bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP) dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố tại 100% xã, phường, thị trấn và các trường học trên địa bàn Thành phố. 8.6. Hoạt động văn hóa, thể thao Hoạt động văn hóa: Tháng Mười Một, Thành phố tiếp tục thực hiện tốt công tác thông tin tuyên truyền, tổ chức biểu diễn các chương trình văn hóa nghệ thuật tại khu vực phố đi bộ hồ Hoàn Kiếm và các vùng phụ cận phục vụ đông đảo tầng lớp nhân dân cũng như du khách trong nước và quốc tế đến Hà Nội. Các di tích trên địa bàn đã thu hút 244,6 nghìn lượt khách tham quan, doanh thu phí ước đạt 11 tỷ đồng. Các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp tổ chức 280 buổi biểu diễn, trong đó 68 buổi phục vụ chính trị, 212 buổi diễn doanh thu đạt 5,2 tỷ đồng, thu hút 63,2 nghìn lượt khán giả. Lũy kế từ đầu năm đến nay, các di tích trên địa bàn Thành phố đã đón hơn 2,7 triệu lượt khách; doanh thu phí 171 tỷ đồng, vượt 25% kế hoạch thu cả năm. Các đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp tổ chức 2,2 nghìn buổi biểu diễn, đạt 115% kế hoạch năm; thu hút gần 800 nghìn lượt khán giả, đạt 108%; doanh thu 35,1 tỷ đồng, đạt 110% (11 tháng năm 2023 tổ chức 725 buổi biểu diễn, thu hút 451,8 nghìn lượt người, doanh thu 12,6 tỷ đồng). Hoạt động thể thao: Trong tháng Mười Một, Thành phố đã cử các đoàn huấn luyện viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế. Thể thao thành tích cao trong tháng đạt 9 huy chương tại các giải đấu quốc tế (5 huy chương Vàng, 4 huy chương Bạc); 242 huy chương trong nước (84 huy chương Vàng, 79 huy chương Bạc, 109 huy chương Đồng) nâng tổng số huy chương của thành phố Hà Nội trong 11 tháng năm 2024 đạt 3.165 huy chương các loại, trong đó: 259 huy chương tại các giải đấu quốc tế (107 huy chương Vàng, 72 huy chương Bạc, 80 huy chương Đồng) và 2.906 huy chương trong nước (1.085 huy chương Vàng, 871 huy chương Bạc, 950 huy chương Đồng). 8.7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Trong tháng, lực lượng Cảnh sát giao thông tăng cường kiểm tra, xử lý các hành vi vi phạm về trật tự, an toàn giao thông đối với lứa tuổi học sinh trung học cơ sở, trung học phổ thông; phụ huynh học sinh, người giám hộ, người giao phương tiện cho học sinh khi chưa đủ điều kiện điều khiển; các chủ phương tiện và phụ huynh chở học sinh vi phạm các quy định về vận tải đường bộ, đường thủy nội địa, đường sắt. Thành phố tiếp tục bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cho nhân dân. Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu trọng điểm, các địa điểm lễ hội, vui chơi giải trí, những nơi tập trung đông người. Với việc triển khai đồng bộ, toàn diện các biện pháp, giải pháp, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững. Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Mười Một (từ 15/10/2024 đến 14/11/2024) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng phát hiện hơn 575 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 316 vụ do công an khám phá. Số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 597 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 161 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 190 đối tượng, thu nộp ngân sách gần 35 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 36 vụ cờ bạc, bắt giữ 120 đối tượng; phát hiện 106 vụ tội phạm và vi phạm pháp luật về ma tuý, bắt giữ 260 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 96 vụ với 183 đối tượng. Tai nạn giao thông: Tháng Mười Một, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 122 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 69 người chết và bị thương 98 người. Chia theo mức độ nghiêm trọng, có 1 vụ tai nạn rất nghiêm trọng làm chết 2 người và bị thương 2 người; có 69 vụ tai nạn nghiêm trọng làm chết 67 người và bị thương 24 người; số vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm là 52 vụ làm 72 người bị thương. Cộng dồn 11 tháng năm 2024, xảy ra 1.371 vụ tai nạn giao thông, trong đó 1.351 vụ tai nạn đường bộ và 20 vụ tai nạn đường sắt, làm 623 người chết và 1.132 người bị thương (11 tháng năm 2023, xảy ra 578 vụ tai nạn giao thông, làm 308 người chết và 456 người bị thương). Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng phát hiện 319 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 323 đối tượng, xử lý 320 vụ với 329 đối tượng, thu nộp ngân sách 4,5 tỷ đồng. Cũng trong tháng Mười Một, trên địa bàn Thành phố xảy ra 91 vụ cháy nổ, không gây thiệt hại về người, trong đó: 20 vụ cháy trung bình và 71 vụ cháy nhỏ. Hiện các cơ quan chức năng đang tiếp tục xác minh nguyên nhân cháy và đánh giá thiệt hại về tài sản do các vụ cháy gây ra. Cộng dồn 11 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố xảy ra 1.125 vụ cháy, nổ làm 26 người chết và 14 người bị thương (11 tháng năm 2023, xảy ra 226 vụ cháy, làm 72 người chết và 51 người bị thương)./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng Mười và 10 tháng năm 2024
- 04/11/2024 09:05
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 1.1. Nông nghiệp Hoạt động trồng trọt trong tháng tập trung vào thu hoạch lúa, cây màu vụ Mùa và gieo trồng cây màu vụ Đông; chăm sóc phát triển đàn gia súc, gia cầm. Tính đến ngày 20/10/2024, toàn Thành phố thu hoạch được 63 nghìn ha lúa vụ Mùa, chiếm 87,6% diện tích gieo cấy và bằng 93,6% so với cùng kỳ năm trước; năng suất lúa ước đạt 57 tạ/ha, giảm 1,2 tạ/ha so với cùng kỳ, chủ yếu do ảnh hưởng của cơn báo số 3 (YAGI) gây mưa ngập ảnh hưởng đến năng suất, sản lượng cây trồng. Thành phố có kế hoạch hỗ trợ các địa phương mở rộng sản xuất cây vụ Đông nên tiến độ cây màu vụ Đông năm nay gieo trồng nhanh hơn cùng kỳ. Tính đến 20/10/2024, Thành phố đã trồng được 4,3 nghìn ha ngô, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước; 420 ha khoai lang, bằng 87,5%; 516 ha đậu tương, bằng 95,6%; 127 ha lạc, bằng 99,2%; 10,7 nghìn ha rau các loại, tăng 9,2%; 164 ha đậu tăng 64%. Trong thời gian gần đây, nhiều tỉnh, thành phố xuất hiện dịch tả lợn châu Phi với nguy cơ lây lan diện rộng và diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, các ngành chức năng của thành phố Hà Nội thực hiện giám sát chặt chẽ dịch bệnh tại cơ sở chăn nuôi trên địa bàn, tăng cường kiểm tra, áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, sát trùng, tiêu độc, kịp thời phát hiện, khoanh vùng và xử lý nhanh gọn khi có dịch bệnh xảy ra. Tổ chức tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn thịt, đồng thời tuyên truyền sâu, rộng đến các hộ chăn nuôi về mức độ nguy hiểm của dịch bệnh và công tác phòng chống dịch. Chăn nuôi trong tháng phát triển ổn định, tiếp tục có sự phục hồi và phát triển đàn. Đàn trâu hiện có 29,5 nghìn con, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 124,7 nghìn con, giảm 2,3%. Chăn nuôi lợn tiếp tục xu hướng tăng đàn, số lượng lợn hiện có ước đạt 1,47 triệu con, tăng 0,1% so với cùng kỳ; đàn gia cầm 42,4 triệu con, tăng 1,1% (đàn gà 28,4 triệu con, tăng 1,5%). Tính chung 10 tháng năm 2024, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 1.773 tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò đạt 8.856 tấn, giảm 0,1%; thịt lợn đạt 215,5 nghìn tấn, tăng 2,6%; thịt gia cầm đạt 139,4 nghìn tấn, tăng 3,5% (thịt gà 104,7 nghìn tấn, tăng 3,6%); trứng gia cầm 2.458 triệu quả, tăng 4,8% (trứng gà 1.202 triệu quả, tăng 4,4%). 1.2. Lâm nghiệp và thủy sản Sản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung vào công tác chăm sóc, bảo vệ rừng, thu hoạch gỗ và lâm sản. Tháng Mười sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2.020 m3, giảm 2,9% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi đạt 77 ste, tăng 4,1%. Tính chung 10 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 119 ha, giảm 2,5% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 630 nghìn cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ khai thác đạt 18,6 nghìn m3, giảm 3,9%; sản lượng củi đạt 678 ste, tăng 3,7%. Sản lượng thủy sản tháng Mười ước đạt 11,5 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng cá), tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 11,3 nghìn tấn, tăng 3,6%; thủy sản khai thác 166 tấn, giảm 1,8%. Tính chung 10 tháng năm 2024, tổng sản lượng thủy sản đạt 103,8 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 102,3 nghìn tấn, tăng 3,5%; thủy sản khai thác 1,5 nghìn tấn, giảm 1,4%. 2. Sản xuất công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Mười ước tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,9% và tăng 6,5%; sản xuất và phân phối điện giảm 3,1% và tăng 8,0%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải giảm 8,7% và tăng 11,9%; ngành khai khoáng giảm 30,6% và giảm 9,1%. Ước tính 10 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,0%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,6%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 10,9%; công nghiệp khai khoáng giảm 0,3%. Trong 10 tháng năm 2024, hầu hết các ngành chế biến, chế tạo đạt mức tăng khá so với cùng kỳ như: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 26,3%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 10,9%; sản xuất trang phục tăng 8,6%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế và công nghiệp chế biến chế tạo khác tăng 8,5%; dệt tăng 8,0%; chế biến thực phẩm tăng 7,4%... Bên cạnh đó, 4 ngành sản xuất có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 4,8%; sản xuất da và các sản phẩm liên quan giảm 0,8%; sản xuất xe có động cơ giảm 0,8%; sửa chữa, bảo dưỡng máy móc, thiết bị giảm 0,1%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ước đến cuối tháng 10/2024 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 0,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước giảm 4,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,7%; khu vực Nhà nước tăng 1,7%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 1,3% (trong đó: sản xuất chế biến thực phẩm giảm 18%; dệt giảm 9,1%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 7,3%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 5,5%); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 2,1%; ngành khai khoáng tăng 19,3%. 3. Thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Mười ước tính đạt 7.783 tỷ đồng, tăng 8,8 % so với thực hiện tháng trước và tăng 35% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 3.064 tỷ đồng, tăng 12,2% và tăng 43%; vốn NSNN cấp huyện 4.371 tỷ đồng, tăng 7% và tăng 26,4%; vốn NSNN cấp xã 348 tỷ đồng, tăng 3,3% và gấp 2 lần. Tính chung 10 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý thực hiện được 53,2 nghìn tỷ đồng, tăng 35,1% so với cùng kỳ năm trước và đạt 64,2% kế hoạch năm 2024, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 20,5 nghìn tỷ đồng, tăng 30,9% và đạt 56,7%; vốn NSNN cấp huyện 30,3 nghìn tỷ đồng, tăng 35,6% và đạt 69,8%; vốn NSNN cấp xã 2,4 nghìn tỷ đồng, tăng 75,7% và đạt 71,1%. 4. Đăng ký doanh nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài 4.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Mười, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 2.318 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 20,6% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 20,6 nghìn tỷ đồng, giảm 12,3%; 926 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 44,6%; 1.544 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 25,2%; 483 doanh nghiệp giải thể, tăng 59,3%; 601 doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể, tăng 45,1%. Tính chung 10 tháng năm 2024, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 24,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 228,3 nghìn tỷ đồng, giảm 5,7% về số lượng doanh nghiệp và giảm 11,8% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 8,6 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 15,1%; 21,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 20,1%; 3,9 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 28,0%; 4,8 nghìn doanh nghiệp chờ làm thủ tục giải thể, tăng 27,1%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 4.2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Trong tháng Mười, thành phố Hà Nội thu hút 58,4 triệu USD vốn FDI, trong đó: 25 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 13 triệu USD; có 13 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 4,5 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần 12 lượt, đạt 40,6 triệu USD. Tính chung 10 tháng năm 2024, toàn Thành phố thu hút 1,6 tỷ USD vốn FDI, trong đó: Đăng ký cấp mới 233 dự án với số vốn đạt trên 1,1 tỷ USD; 160 lượt tăng vốn đầu tư với 184 triệu USD; 192 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 208 triệu USD. 5. Hoạt động thương mại, dịch vụ 5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Trong tháng, tình hình cung cầu hàng hóa trên địa bàn Thành phố vẫn duy trì ổn định, công tác bình ổn giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng, bảo đảm an toàn thực phẩm tiếp tục được Thành phố quan tâm, chỉ đạo. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười ước tính đạt 77,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 48,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% và tăng 9,6%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 11,2 nghìn tỷ đồng, tăng 3,0% và tăng 10,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,6 nghìn tỷ đồng, tăng 5,9% và tăng 32,1%; doanh thu dịch vụ khác đạt 15,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 4,9%. Tính chung 10 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 699,2 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 441,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,1% tổng mức và tăng 10,7% (đá quý, kim loại quý tăng 37,1%; lương thực, thực phẩm tăng 13,7%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 12,8%; hàng may mặc tăng 10%; ô tô con tăng 8,3%; xăng dầu tăng 7,9%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 7,7%; phương tiện đi lại trừ ô tô con tăng 6,1%; hàng hóa khác tăng 11,7%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 95,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,7% và tăng 11,1% (dịch vụ lưu trú tăng 32,2%; dịch vụ ăn uống tăng 8,9%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 23,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,3% và tăng 40,1%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 139 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,9% và tăng 6,5%. 5.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Tổng doanh thu hoạt động vận tải, kho bãi, dịch vụ hỗ trợ và bưu chính chuyển phát tháng Mười ước đạt 19,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,4% so với tháng trước và tăng 14% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, Tổng doanh thu ước đạt 181,6 nghìn tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận chuyển hành khách: Tháng Mười, hoạt động vận chuyển hành khách tiếp tục tăng trưởng khá. Số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 36,5 triệu lượt người, tăng 3% so với tháng trước và tăng 20,4% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1,1 tỷ lượt người.km, tăng 3,1% và tăng 7,1%; doanh thu ước tính đạt 1,9 nghìn tỷ đồng, tăng 3,2% và tăng 14,9%. Tính chung 10 tháng năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 349,6 triệu lượt người, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 10,4 tỷ lượt người.km, tăng 12,8%; doanh thu đạt 18,5 nghìn tỷ đồng, tăng 16,3%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Mười ước tính đạt 142,6 triệu tấn, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 15% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 13,7 tỷ tấn.km, tăng 3,4% và tăng 12,2%; doanh thu ước tính đạt 8,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% và tăng 13,4%. Tính chung 10 tháng năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,4 tỷ tấn, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 130,6 tỷ tấn.km, tăng 12,6%; doanh thu đạt 76,5 nghìn tỷ đồng, tăng 14,3%. Doanh thu hoạt động kho bãi và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng Mười ước tính đạt 7,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, doanh thu đạt 75,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Mười ước tính đạt 1,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2% so với tháng trước và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, doanh thu đạt 11 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm 2023. 5.3. Hoạt động du lịch Trong tháng, ngành Du lịch Thủ đô tiếp tục đưa ra nhiều chương trình kích cầu du lịch nội địa nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày Giải phóng Thủ đô 10/10. Thành phố xây dựng đa dạng các hình thức truyền thông trên các nền tảng số, Website, nền tảng mạng xã hội và các hình thức tuyên truyền quảng bá khác phù hợp trên không gian mạng nhằm tạo sức lan tỏa lớn và thu hút khách đến Hà Nội. Trong tháng, Thành phố đã tổ chức “Ngày hội văn hóa vì Hòa bình” kỷ niệm 70 năm ngày giải phóng Thủ đô và kỷ niệm 25 năm Hà Nội được vinh danh Thành phố vì hòa bình; tổ chức Lễ hội Áo dài Du lịch Hà Nội 2024... Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội tháng Mười ước đạt 586 nghìn lượt người, tăng 18,1% so với tháng trước và tăng 16,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, khách du lịch đến Hà Nội ước đạt 5.110 nghìn lượt người, tăng 28,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế tháng Mười ước đạt 405 nghìn lượt người, tăng 26,5% so với tháng trước và tăng 19,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, khách quốc tế ước đạt 3.521 nghìn lượt người, tăng 37,0% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 416,6 nghìn lượt người, tăng 9,9%; Trung Quốc 407 nghìn lượt người, tăng 70,5%; Mỹ 221,4 nghìn lượt người, tăng 21,6%; Nhật Bản 215,5 nghìn lượt người, tăng 25,5%; Anh 184,5 nghìn lượt người, tăng 38,9%; Pháp 161,3 nghìn lượt người, tăng 51,5%; Đức 119 nghìn lượt người, tăng 45,4%; Ma-lai-xi-a 91,8 nghìn lượt khách, tăng 11,1%; Xin-ga-po 76 nghìn lượt người, tăng 4,4%; Canada 59,5 nghìn lượt người, tăng 25,5%. Khách du lịch nội địa tháng Mười ước đạt 181 nghìn lượt người, tăng 2,8% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 10 tháng năm 2024, khách du lịch nội địa đến Hà Nội ước đạt 1.589 nghìn lượt người, tăng 13,0% so với cùng kỳ năm trước. 5.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Mười ước tính đạt 1,5 tỷ USD, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 5,2% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 842 triệu USD, tăng 2,3% và tăng 3,8%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 635 triệu USD, tăng 1,9% và tăng 7,0%. Trong tháng, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 211 triệu USD, tăng 15,6%; hàng dệt may đạt 192 triệu USD, tăng 26,7%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 191 triệu USD, tăng 10,6%; hàng nông sản đạt 127 triệu USD, tăng 36,2%; hàng hóa khác đạt 368 triệu USD, tăng 10,4%. Trong tháng Mười, có 4 nhóm hàng chủ yếu kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 163 triệu USD, giảm 20,7%; xăng dầu đạt 85 triệu USD, giảm 35,7%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 52 triệu USD, giảm 23,3%; hàng gốm sứ đạt 18 triệu USD, giảm 10,2%. Tính chung 10 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 15,5 tỷ USD, tăng 12,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 9,1 tỷ USD, tăng 15,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 6,4 tỷ USD, tăng 8,6%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 2,3 tỷ USD, tăng 18,7%; hàng may, dệt đạt 1,9 tỷ USD, tăng 8,3%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 1,9 tỷ USD, tăng 9,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,8 tỷ USD, tăng 16,3%; hàng nông sản đạt 1,3 tỷ USD, tăng 43,9%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 632 triệu USD, tăng 0,4%; hàng hóa khác đạt 3,8 tỷ USD, tăng 10,6%. Có 2/12 nhóm hàng chủ yếu kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 1,1 tỷ USD, giảm 2,1%; giầy dép và sản phẩm từ da đạt 290 triệu USD, giảm 9,0%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Mười ước tính đạt 3,2 tỷ USD, tăng 3,7% so với tháng trước và giảm 2,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 2,6 tỷ USD, tăng 3,8% và giảm 4,6%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 580 triệu USD, tăng 3,4% và tăng 10,1%. Một số nhóm hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 631 triệu USD, giảm 11,1%; xăng dầu đạt 246 triệu USD, giảm 47,6%; chất dẻo đạt 110 triệu USD, giảm 2,1%; ngô đạt 63 triệu USD, giảm 16,3%; thức ăn gia súc đạt 57 triệu USD, giảm 0,2%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 227 triệu USD, tăng 16,2%; sắt thép đạt 206 triệu USD, tăng 3,1%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 189 triệu USD, tăng 47,6%; kim loại khác đạt 130 triệu USD, tăng 29,7%; vải đạt 95 triệu USD, tăng 30%; sản phẩm hóa chất đạt 72 triệu USD, tăng 13,8%; hàng hóa khác đạt 1,1 tỷ USD, tăng 7,1%. Tính chung 10 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 33,2 tỷ USD, tăng 9,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 27,6 tỷ USD, tăng 10,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đạt 5,6 tỷ USD, tăng 6,9%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn như: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 5,7 tỷ USD, tăng 17,3%; xăng dầu đạt 3,8 tỷ USD, giảm 15,6%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 2,1 tỷ USD, tăng 14,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,9 tỷ USD, tăng 24,7%; sắt thép đạt 1,8 tỷ USD, tăng 20,2%; kim loại khác đạt 1,2 tỷ USD, tăng 48,5%; chất dẻo đạt 1,1 tỷ USD, tăng 5,6%; hàng hóa khác đạt 11,7 tỷ USD, tăng 10,3%. 6. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10/2024 tăng 0,28% so với tháng trước, tăng 2,24% so với tháng 12/2023 và tăng 2,20% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 10 tháng năm nay tăng 4,61% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Trong tháng Mười, 9/11 nhóm hàng CPI tăng so với tháng trước: Nhóm hàng ăn, dịch vụ ăn uống tăng 0,55% (tác động làm tăng CPI chung 0,17%) do giá lương thực tăng 0,80%; giá thực phẩm tăng 0,53%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,51%. Nhóm giao thông tăng 0,53% (tác động làm tăng CPI chung 0,05%). Đồ uống và thuốc lá tăng 0,24%. Nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,21%. Nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,17%. Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,39%. Các nhóm còn lại CPI tăng nhẹ: Nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 0,07%; giáo dục tăng 0,06%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,03%. Bên cạnh đó, có 2/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,19% (tác động làm giảm CPI chung 0,01%). Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm nhẹ 0,01%. Bình quân 10 tháng năm 2024, CPI tăng 4,61% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 20,98% (tác động làm CPI bình quân chung 10 tháng năm nay tăng 1,66%) do 3 tháng đầu năm 2024 các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,04% (tác động làm CPI tăng 1,23%) do giá nước sạch tăng 28,36%; giá điện tăng 7,80% so cùng kỳ do tăng giá điện 2 lần vào tháng 5 và tháng 11 năm 2023; giá nhà thuê tăng 8,38%. Thuốc và dịch vụ y tế tăng 5,05% (tác động làm CPI tăng 0,26%); Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,40% (tác động làm CPI tăng 1,06%) do giá lương thực tăng 10,97% (trong đó giá gạo tăng 14,85%); thực phẩm tăng 2,60%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,74%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,44% (tác động làm CPI tăng 0,05%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,74% (tác động làm CPI tăng 0,10%); văn hóa, giải trí, du lịch tăng 1,39% (tác động làm CPI tăng 0,07%); giao thông tăng 1,02% (tác động làm CPI tăng 0,10%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,17% (tác động làm CPI tăng 0,01%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,66% (tác động làm CPI tăng 0,32%) chủ yếu do giá vàng cao dẫn đến giá đồ trang sức tăng 31,10% và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 24,41%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,23% (tác động làm CPI giảm 0,04%). Chỉ số giá vàng tháng Mười tăng 6,26% so với tháng trước, tăng 35,45% so với tháng 12/2023 và tăng 46,59% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 10 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 31,39% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Mười tăng 0,80% so với tháng trước, tăng 2,55% so với tháng 12/2023 và tăng 1,90% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 10 tháng năm 2024, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,02% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. 7. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán 7.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 10 tháng năm 2024 ước thực hiện 425,2 nghìn tỷ đồng, đạt 104,1% dự toán năm và tăng 21,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Thu nội địa 398,7 nghìn tỷ đồng, đạt 105,3% dự toán và tăng 22,5% so cùng kỳ với năm 2023; thu từ dầu thô 3,2 nghìn tỷ đồng, đạt 105,1% và giảm 17,9%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 23,1 nghìn tỷ đồng, đạt 85,6% và tăng 17,8%. Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 10 tháng năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 65,1 nghìn tỷ đồng, đạt 92,3% dự toán năm và tăng 9,2% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 26,7 nghìn tỷ đồng, đạt 99,9% và tăng 10,9%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 79 nghìn tỷ đồng, đạt 100,6% và tăng 22,2%; thuế thu nhập cá nhân 42,6 nghìn tỷ đồng, đạt 103,9% và tăng 25,9%; thu tiền sử dụng đất 33,3 nghìn tỷ đồng, đạt 92,3% và gấp hơn 4 lần; thu lệ phí trước bạ 6,1 nghìn tỷ đồng, đạt 93,3% và tăng 14,5%; thu phí và lệ phí 20,1 nghìn tỷ đồng, đạt 103,3% và tăng 26,4%. Chi ngân sách địa phương 10 tháng năm 2024 ước thực hiện 79,1 nghìn tỷ đồng, đạt 54,0% dự toán năm và tăng 20,9% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chi đầu tư phát triển 35,5 nghìn tỷ đồng, đạt 45,0% dự toán và tăng 27,9%; chi thường xuyên 42,9 nghìn tỷ đồng, đạt 74,2% và tăng 15,5%. 7.2. Tín dụng ngân hàngTình hình thực hiện lãi suất: Tháng Mười, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay cũ và mới còn dư nợ ở mức 6,8 - 9,2%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,6%/năm, thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Lãi suất tiền gửi tác động theo đó phổ biến ở mức 0,2 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 2,4 - 4,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,3 - 5,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 5,8 - 7,0%/năm. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 10/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.692 nghìn tỷ đồng, tăng 0,56% so với cuối tháng trước và tăng 6,68% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó tiền gửi đạt 5.005 nghìn tỷ đồng, tăng 0,63% và tăng 7,19%; phát hành giấy tờ có giá đạt 687 nghìn tỷ đồng, tăng 0,03% và tăng 3,16%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 10/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.153 nghìn tỷ đồng, tăng 0,61% so với cuối tháng trước và tăng 14,83% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 1.785 nghìn tỷ đồng, tăng 0,62% và tăng 18,64%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.368 nghìn tỷ đồng, tăng 0,60% và tăng 12,11%. Tính đến cuối tháng 10/2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,81% trong tổng dư nợ. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 13,68% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,89%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,14%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,32%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%; cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%. 7.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết tháng Chín năm 2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.195 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 311 doanh nghiệp và Upcom có 884 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 619,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 157,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,2% và tăng 4,2%; Upcom đạt 462,1 nghìn tỷ đồng, tăng 3,6% và tăng 7,7%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng của tháng Chín đạt 1.763,7 nghìn tỷ đồng, giảm 2,0% so với tháng trước và tăng 27,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 330 nghìn tỷ đồng, giảm 0,5% và tăng 6,2%; Upcom đạt 1.433,7 nghìn tỷ đồng, giảm 2,3% và tăng 33,3%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tháng Chín khối lượng giao dịch đạt 1.093 triệu CP được chuyển nhượng, giảm 18,3% so với tháng trước và giảm 50,5% so với cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 20,7 nghìn tỷ đồng, giảm 22,2% và giảm 52,5%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh đạt 920 triệu CP, giảm 24,4% và giảm 54,5%; giá trị đạt 17,5 nghìn tỷ đồng, giảm 25,4% và giảm 56,5%. Tính chung 9 tháng năm 2024, khối lượng giao dịch đạt 14,8 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 297,3 nghìn tỷ đồng, giảm 17,9% về khối lượng và tăng 2,4% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Chín, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 198 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 36 mã giao dịch; cá nhân 162 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 9 tháng năm 2024 đạt 1.272 nghìn tài khoản. 8. Một số vấn đề xã hội 8.1. Giải quyết việc làm Theo Báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, trong tháng Mười, Thành phố giải quyết việc làm cho hơn 17,5 nghìn lao động, trong đó 1,3 nghìn lao động được tạo việc làm từ nguồn vốn ngân sách Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách xã hội với số tiền là 104 tỷ đồng; 1,9 nghìn lao động nhận được việc làm sau khi phỏng vấn tại các phiên, sàn giao dịch việc làm; trên 14,3 nghìn lao động được giải quyết việc làm qua hình thức xuất khẩu lao động, cung ứng dịch vụ việc làm của các doanh nghiệp và qua các hình thức khác. Cũng trong tháng Mười, Thành phố ra quyết định trợ cấp Bảo hiểm thất nghiệp cho 5,6 nghìn người với số tiền hỗ trợ 180 tỷ đồng. Tính chung 10 tháng năm 2024, Thành phố giải quyết việc làm cho 196,3 nghìn lao động, đạt 118,9% kế hoạch năm và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2023; quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 64,5 nghìn người với số tiền hỗ trợ 1.978 tỷ đồng, trong đó hỗ trợ học nghề để tìm việc mới cho hơn 0,9 nghìn người với số tiền 3,7 tỷ đồng. 8.2. Bảo đảm an sinh xã hội Tháng Mười, công tác đảm bảo an sinh và phúc lợi xã hội tiếp tục được chính quyền các cấp quan tâm thực hiện. Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 1.246 hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công, thân nhân người có công và các đối tượng liên quan; tiếp nhận, thẩm định và ra quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp 5.560 trường hợp với số tiền hỗ trợ 180 tỷ đồng. Tính chung 10 tháng năm 2024 giải quyết trên 9,4 nghìn hồ sơ với kinh phí trên 2,1 nghìn tỷ đồng. Toàn Thành phố hiện có trên 203 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng. Tổng kinh phí chi trả 10 tháng năm 2024 gần 1,5 nghìn tỷ đồng. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.080 đối tượng bảo trợ xã hội (là người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác) tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố. Các Trung tâm nuôi dưỡng người có công của Thành phố đã phối hợp các quận, huyện, thị xã đón và thực hiện điều dưỡng tập trung đối với 2.883 lượt người có công và thân nhân với kinh phí gần 11 tỷ đồng; Tính chung 10 tháng năm 2024, thực hiện điều dưỡng tập trung trên 18,4 nghìn lượt người, với tổng kinh phí trên 81,5 tỷ đồng, đạt 86,9% so với Kế hoạch. 8.3. Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp Năm 2024, theo kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 94,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 45% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 40% lực lượng lao động. Ước tính đến hết 10 tháng năm 2024 theo Báo cáo của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 94,9% dân số với 8.082 nghìn người tham gia, tăng 1,8% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.132 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 45,6% lực lượng trong độ tuổi lao động), tăng 3,6% và tăng 5,4%; hơn 100 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,8%), tăng 22,3% và tăng 25,7%. Số người tham gia BHTN là 2.065 nghìn người (chiếm 44,1%), tăng 3,8% và tăng 5,5%. Tính đến cuối tháng 10/2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 55,4 nghìn tỷ đồng, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 60,6 nghìn tỷ đồng, tăng 6,0% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng là 37,6 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 20,7 nghìn tỷ đồng). 8.4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề Trong tháng Mười, Thành phố triển khai thực hiện 02 Nghị quyết của HĐND Thành phố về mức thu học phí đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập tự bảo đảm chi thường xuyên; cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông công lập chất lượng cao của thành phố Hà Nội năm học 2024-2025 và giá dịch vụ giáo dục để thực hiện thí điểm đối với các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông sử dụng ngân sách nhà nước của thành phố Hà Nội. Tính đến cuối tháng 9/2024, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 64,5%, trong đó: Mầm non đạt 55,5%; tiểu học 72,8%; trung học cơ sở 81,0%; trung học phổ thông 37,1%. Thành phố tiếp tục triển khai Kế hoạch xây dựng, phấn đấu đến cuối năm 2024 hoàn thành chỉ tiêu công nhận mới 114 trường công lập đạt chuẩn quốc gia và công nhận lại 300 trường đạt chuẩn. Về giáo dục nghề nghiệp, trong 10 tháng năm 2024 các cơ sở có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Thành phố đã tuyển sinh được 226,5 nghìn lượt người (trong đó 29,2 nghìn người trình độ cao đẳng; 27,5 nghìn người trình độ trung cấp; 169,8 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng), đạt 96,4% kế hoạch tuyển sinh năm 2024. 8.5. Tình hình dịch bệnh Theo số liệu của Sở Y tế Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 14/9 đến ngày 14/10/2024 tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue có xu hướng tăng, trong tháng ghi nhận 1.194 ca mắc, tăng 7,8% so với tháng trước; cộng dồn từ đầu năm 2024 đến nay Thành phố ghi nhận 4.160 ca mắc, giảm 79,8% so với cùng kỳ năm 2023. Bệnh Tay chân miệng 225 ca mắc, tăng 36,4% so tháng trước; cộng dồn từ đầu năm có 2.186 ca mắc, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2023. Ho gà 8 ca mắc, giảm 33,3% so với tháng trước; cộng dồn từ đầu năm có 236 ca mắc, bằng cùng kỳ năm 2023. Bệnh liên cầu lợn 01 ca mắc; cộng dồn năm 2024 ghi nhận 09 trường hợp mắc, 01 tử vong, số mắc giảm 40,0% so với cùng kỳ năm 2023. Bệnh thủy đậu 56 ca mắc, giảm 12,5% so tháng trước; cộng dồn từ đầu năm 804 ca mắc, giảm 60,2% so với cùng kỳ năm 2023. Các dịch bệnh khác không có gì đặc biệt, Thành phố chưa ghi nhận trường hợp mắc bệnh đậu mùa khỉ và bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Tình hình dịch bệnh trong khu vực ngập lụt do ảnh hưởng của cơn bão số 3 có 505 người mắc bệnh về da, 42 người mắc bệnh tiêu hóa, 117 người mắc bệnh về mắt, 01 ca sốt xuất huyết. Ngay khi cơn bão qua, các Trung tâm y tế đã chủ động cấp phát thuốc phòng bệnh cho người dân tại điểm ngập úng, đồng thời cấp phát thuốc, hóa chất khử trùng phục vụ cho công tác xử lý nước, môi trường. Công tác vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được Thành phố quan tâm. Thành phố đẩy mạnh các biện pháp kiểm tra, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm. Duy trì công tác bảo đảm an toàn thực phẩm (ATTP) dịch vụ ăn uống, thức ăn đường phố tại 100% xã, phường, thị trấn và các trường học trên địa bàn Thành phố. 8.6. Hoạt động văn hóa, thể thao - Hoạt động văn hóa: Vào ngày 10/10/2024, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam - Quốc hội - Chủ tịch nước - Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và thành phố Hà Nội đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm cấp quốc gia 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô. Tại đây, những chia sẻ của nhân chứng lịch sử và đại diện thế hệ trẻ Thủ đô sẽ góp phần nâng cao ý thức, lòng tự hào về truyền thống lịch sử vẻ vang, hào hùng, hòa bình, hữu nghị của Thăng Long - Hà Nội. Kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô, tại khu vực nội thành, trung tâm Thành phố và các trục đường chính, công tác tuyên truyền, cổ động trực quan được thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú theo nội dung, mẫu tranh cổ động đã được phê duyệt. Trong đó, tập trung trang trí tại các khu vực trung tâm, các tuyến đường chính, các điểm văn hoá công cộng, nơi đông người qua lại… Đài truyền thanh cơ sở tăng cường tin bài, thời lượng phát thanh tuyên truyền trước, trong và sau ngày Kỷ niệm tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân. Trong tháng Mười, các đơn vị nghệ thuật tổ chức biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đối ngoại và phục vụ đông đảo các tầng lớp Nhân dân với 223 buổi diễn (49 buổi phục vụ chính trị và 174 buổi diễn doanh thu đạt 4,8 tỷ đồng). Hoạt động thể thao: Trong tháng Mười, Thành phố đã cử các đoàn huấn luyện viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế. Thể thao thành tích cao trong tháng đạt 303 huy chương trong nước (119 huy chương Vàng, 76 huy chương Bạc, 108 huy chương Đồng) nâng tổng số huy chương của thành phố Hà Nội trong 10 tháng năm 2024 đạt 2.914 huy chương các loại, trong đó: 250 huy chương tại các giải đấu quốc tế (102 huy chương Vàng, 68 huy chương Bạc, 80 huy chương Đồng) và 2.664 huy chương trong nước (1.001 huy chương Vàng, 792 huy chương Bạc, 871 huy chương Đồng). 8.7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Mười (từ 15/9/2024 đến 14/10/2024) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng phát hiện hơn 627 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 365 vụ do công an khám phá. Số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 687 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 333 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 358 đối tượng, thu nộp ngân sách 329 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 50 vụ cờ bạc, bắt giữ 219 đối tượng; phát hiện 239 vụ tội phạm và vi phạm pháp luật về ma tuý, bắt giữ 368 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 232 vụ với 338 đối tượng. Tai nạn giao thông: Tháng Mười, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 109 vụ tai nạn giao thông làm 60 người chết và bị thương 84 người (đều tai nạn giao thông đường bộ). Chia theo mức độ nghiêm trọng, có 1 vụ tai nạn rất nghiêm trọng làm chết 2 người; có 66 vụ tai nạn nghiêm trọng làm chết 58 người và bị thương 22 người; số vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm là 42 vụ làm 62 người bị thương. Cộng dồn 10 tháng năm 2024, xảy ra 1.249 vụ tai nạn giao thông, trong đó 1.229 vụ tai nạn đường bộ và 20 vụ tai nạn đường sắt, làm 554 người chết và 1.034 người bị thương. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng phát hiện 888 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 890 đối tượng; xử lý 902 vụ với 902 đối tượng; thu nộp ngân sách 5,6 tỷ đồng. Cũng trong tháng Mười, trên địa bàn Thành phố xảy ra 108 vụ cháy nổ, làm 01 người chết, trong đó: 01 vụ cháy lớn, 22 vụ cháy trung bình và 85 vụ cháy nhỏ. Hiện các cơ quan chức năng đang tiếp tục xác minh nguyên nhân cháy và đánh giá thiệt hại về tài sản do các vụ cháy gây ra. Cộng dồn 10 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố xảy ra 1.034 vụ cháy, nổ làm 26 người chết và 14 người bị thương./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2024
- 07/10/2024 09:01
Kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội 9 tháng năm 2024 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới vẫn có những biến động khó lường; xung đột quân sự Nga và Ucraina diễn biến phức tạp, giao tranh khu vực Trung Đông ngày càng gia tăng, căng thẳng chính trị, bất ổn tại một số quốc gia. Kinh tế toàn cầu năm 2024 theo nhận định của hầu hết các tổ chức quốc tế đều nâng triển vọng tăng trưởng so với dự báo trước đó. Ở trong nước, tình hình kinh tế quý III/2024 có nhiều tiến triển tích cực, tuy nhiên do chịu tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, mưa lũ lớn hơn so với mức trung bình hàng năm, đặc biệt là cơn bão số 3 (Yagi) với cường độ mạnh, sức tàn phá lớn và hoàn lưu sau bão gây mưa lớn tại 26 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc để lại hậu quả nặng nề về người và tài sản, tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân. Với tinh thần nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả, nhiều chính sách của Chính phủ được ban hành nhằm ổn định đời sống nhân dân, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi phát triển kinh tế. Phát huy sức mạnh nội tại và sự linh hoạt trong điều tiết chính sách giúp nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng, ổn định và có nhiều điểm sáng. Đối với Thủ đô Hà Nội, ngay từ đầu năm, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố đã triển khai quyết liệt các Nghị quyết, kết luận của Trung ương và Thành phố, chỉ đạo các cấp, các ngành và địa phương thực hiện hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hạ lãi suất, đơn giản các thủ tục vay vốn, kết nối thương mại, kích cầu tiêu dùng; khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3 nhanh chóng ổn định tình hình, kiểm soát tốt giá tiêu dùng, đảm bảo cung cầu, phòng chống dịch bệnh. Nhờ đó, kinh tế Thành phố tiếp tục duy trì tăng trưởng, an sinh xã hội được đảm bảo, kết quả chủ yếu các ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng năm 2024 như sau: I. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1. Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý III ước tính tăng 6,06% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,66%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,22%; khu vực dịch vụ tăng 6,48%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,99%. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Ngay từ những tháng đầu năm, ngành Nông nghiệp đã chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi và giống cây trồng nhằm cung cấp những sản phẩm an toàn chất lượng có giá trị kinh tế cao ra thị trường trong nước và xuất khẩu. Tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản 6 tháng đầu năm 2024 tăng 3,2% so với cùng kỳ (6 tháng năm 2023 tăng 2,63%). Tuy nhiên trong quý III, ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng do cơn bão số 2, đặc biệt là thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 (Yagi) cùng hoàn lưu sau bão gây mưa lớn kéo dài, ngập lụt diễn ra nghiêm trọng tại một số quận, huyện trên địa bàn Thành phố. Nhiều diện tích lúa vụ Mùa và hoa màu bị hư hại; lồng bè nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng cuối trôi; gia súc, gia cầm bị chết. Ước tính giá trị tăng thêm quý III tăng 0,66% so với cùng kỳ năm trước (giảm 1,65 điểm % so với quý trước và giảm 1,61 điểm % so với cùng kỳ năm 2023), đóng góp 0,01 điểm % vào mức tăng GRDP. Khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính quý III năm nay tăng 6,22% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,36 điểm % vào mức tăng GRDP của Thành phố. Ngành công nghiệp trong quý III có nhiều điểm sáng khi số lượng đơn hàng sản xuất trong nước và xuất khẩu nhiều hơn, bên cạnh đó giá xăng dầu và chi phí vận chuyển ổn định đã phần nào giảm bớt gánh nặng cho hoạt động sản xuất công nghiệp. Ước tính giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý III tăng 6,28% so với cùng kỳ, đóng góp 0,86 điểm % vào mức tăng chung (tăng 0,64 điểm % so với quý trước và tăng 1,8 điểm % so với cùng kỳ năm 2023). Ngành xây dựng quý III ước tính tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,49 điểm % vào mức tăng chung. Khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá (6,50%), đóng góp 4,27 điểm % vào mức tăng GRDP quý III, trong đó một số ngành, lĩnh vực tăng khá, đóng góp nhiều vào tăng trưởng chung của Thành phố: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (bao gồm lĩnh vực du lịch, lữ hành) tăng 10,53% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,35 điểm % vào mức tăng chung; quản lý Nhà nước tăng 8,63%, đóng góp 0,12 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 8,0%, đóng góp 0,94 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 7,3%, đóng góp 0,72 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 7,3%, đóng góp 0,23 điểm %; hoạt động chuyên môn khoa học, công nghệ tăng 6,88%, đóng góp 0,41 điểm %; thông tin, truyền thông tăng 6,32%, đóng góp 0,92 điểm %. Các ngành dịch vụ khác tiếp tục duy trì tăng trưởng: Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình tăng 7,17% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 5,81%; kinh doanh bất động sản tăng 3,76%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,47%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 3,46%; vận tải, kho bãi tăng 3,1%; dịch vụ khác tăng 3,74%. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm quý III ước tính tăng 3,99%, chiếm 0,43 điểm % tăng trưởng GRDP của Thành phố. Tính chung 9 tháng năm 2024, GRDP của Thành phố ước tính tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2023 tăng 5,99%). Trong bối cảnh tình hình thế giới căng thẳng chính trị leo thang, diễn biến phức tạp; ở trong nước các tỉnh, thành phố phía Bắc chịu thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, kinh tế Thủ đô đạt mức tăng trưởng trên là rất quan trọng và đáng ghi nhận. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2024 ước tính tăng 2,47% so với cùng kỳ năm 2023, đóng góp 0,05 điểm % vào mức tăng GRDP (9 tháng năm 2023 tăng 2,53%). Trong 9 tháng năm nay, trên địa bàn Thành phố không xuất hiện dịch bệnh lớn, hoạt động tái đàn tiếp tục phát triển, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng trong 9 tháng tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước; thịt gia cầm tăng 3,5%. Bên cạnh đó, Thành phố tiếp tục cơ cấu lại ngành trồng trọt theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, gieo cấy lúa chất lượng cao; mở rộng diện tích trồng rau, hoa, cây cảnh; tăng các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình GAP, VietGAP, rau hữu cơ. Khu vực công nghiệp và xây dựng 9 tháng năm 2024 ước tính tăng 5,74% so cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,15 điểm % vào mức tăng GRDP (9 tháng năm 2023 tăng 4,64%), trong đó: Ngành công nghiệp tăng 5,72%, đóng góp 0,73 điểm % (ngành chế biến chế tạo tăng 5,19%; sản xuất phân phối điện tăng 11,1%; cung cấp nước và xử lý, nước thải tăng 9,69%). Ngành xây dựng 9 tháng năm nay ước tăng 5,78%, đóng góp 0,42 điểm % vào mức tăng chung. Khu vực dịch vụ 9 tháng năm nay ước tính tăng 6,76% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 4,53 điểm % vào mức tăng GRDP (9 tháng năm 2023 tăng 7,02%), trong đó một số ngành tăng trưởng khá, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 17,22%, đóng góp 0,61 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 8,56%, đóng góp 0,87 điểm %; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 7,55%, đóng góp 0,13 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,38%, đóng góp 0,77 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 6,61%, đóng góp 0,23 điểm %; khoa học và công nghệ tăng 6,49%, đóng góp 0,4 điểm %. Các ngành dịch vụ khác tiếp tục duy trì tăng trưởng: Hoạt động làm thuê các công việc trong hộ gia đình tăng 6,54%; quản lý Nhà nước tăng 6,2%; thông tin, truyền thông tăng 5,37%; vận tải, kho bãi tăng 4,83%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 4,52%; kinh doanh bất động sản tăng 3,37%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,32%; dịch vụ khác tăng 2,32%. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 9 tháng năm 2024 ước tăng 3,54% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 0,39 điểm % mức tăng GRDP chung. Cơ cấu GRDP 9 tháng năm 2024 theo giá hiện hành: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 1,98%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21,23%; khu vực dịch vụ chiếm 66,39%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,4% (cơ cấu GRDP 9 tháng năm 2023 tương ứng là: 2,03%; 21,72%; 65,53% và 10,72%). 2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản Trong 9 tháng năm 2024, Ngành Nông nghiệp Thủ đô tích cực đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp an toàn, chất lượng, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cơn bão số 2, đặc biệt là cơn bão số 3 Yagi trong quý III/2024 đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn Thành phố. 2.1. Nông nghiệp Sản xuất vụ Mùa: Tính đến cuối tháng Chín, toàn Thành phố đã gieo cấy được 71,9 nghìn ha lúa vụ Mùa, bằng 99,3% cùng kỳ năm trước (năng suất lúa ước tính đạt 55,3 tạ/ha, bằng 95,1% cùng kỳ năm 2023); 3.231 ha ngô, bằng 99,1%; 213 ha khoai lang, bằng 95%; 288 ha đậu tương, bằng 99%; 539 ha lạc, bằng 97,9%; 9.776 ha rau, bằng 98,7%. Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm ước đạt 24 nghìn ha, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả đạt 20,2 nghìn ha, tăng 0,5%; cây chè 2 nghìn ha, tăng 0,1%; cây gia vị, dược liệu 550 ha, tăng 5%; cây lấy quả chứa dầu 22 ha, giảm 1,3%; cây lâu năm khác 1,5 nghìn ha, tăng 3,2%. Ước tính sản lượng một số cây lâu năm 9 tháng năm 2024: Chuối 54,1 nghìn tấn, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm trước; ổi 18 nghìn tấn, giảm 14,2%; táo 9,7 nghìn tấn, tăng 4,6%; dứa 2,4 nghìn tấn, tăng 1%; xoài 2 nghìn tấn giảm 50%; vải 1,2 nghìn tấn giảm 50%; chè búp 13,8 nghìn tấn, giảm 1%. Chăn nuôi: Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung ổn định. Đàn trâu hiện có 29,5 nghìn con, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 125,1 nghìn con, giảm 2,3%. Chăn nuôi lợn tiếp tục xu hướng tái đàn, trong tháng không xảy ra bệnh Dịch tả lợn châu Phi, giá bán thịt lợn hơi xuất chuồng có xu hướng tăng trong quý III, thuận lợi cho các cơ sở chăn nuôi tái đàn kịp cung cấp nhu cầu thực phẩm cao những tháng cuối năm. Đàn lợn hiện có 1,46 triệu con, giảm 1% so cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm 42,4 triệu con, tăng 1,1% (đàn gà 28,4 triệu con, tăng 1,3%). Tính chung 9 tháng năm 2024, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 1,6 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 8 nghìn tấn, giảm 0,1%; thịt lợn 193,7 nghìn tấn, tăng 2,7%; thịt gia cầm 125,4 nghìn tấn, tăng 3,5% (thịt gà 94,2 nghìn tấn, tăng 3,7%); trứng gia cầm 2.209 triệu quả, tăng 4,8% (trứng gà 1.080 triệu quả, tăng 4,3%); sản lượng sữa bò tươi đạt 33 nghìn tấn, tăng 1,8%. 2.2. Lâm nghiệp và thủy sản Lâm nghiệp: Trong tháng Chín, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,2 nghìn m3, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi khai thác đạt 79 ste, tăng 3,9%. Tính chung 9 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 119 ha, giảm 2,5% (trong đó: 116 ha rừng sản xuất giảm 3,3%; 3 ha rừng phòng hộ tăng 50%) so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán gần 630 nghìn cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ đạt 16,6 nghìn m3, giảm 4%; sản lượng củi đạt 601 ste, tăng 3,6%. Trong 9 tháng năm nay, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 2 vụ cháy rừng, chủ yếu cháy thực bì dưới tán rừng, gây thiệt hại 2 ha rừng. Thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2024 ước đạt 23,3 nghìn ha (chủ yếu là diện tích nuôi cá), tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong thời gian qua một số địa phương tiếp tục chuyển đổi diện tích trồng cây hàng năm không hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, phát triển theo hướng bền vững, an toàn, áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, đưa giống cá trắm, chép lai, rô phi đơn tính… có năng suất, chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Sản lượng thủy sản tháng Chín ước đạt 11,2 nghìn tấn (chủ yếu là sản lượng cá), tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 11 nghìn tấn, tăng 2,6%; thủy sản khai thác 220 tấn, giảm 0,9%. Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 92,4 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng 91,1 nghìn tấn, tăng 3,4%; thủy sản khai thác 1,3 nghìn tấn, giảm 0,6%. 3. Sản xuất công nghiệp Sau cơn bão số 3 với tinh thần trách nhiệm cao của nhân dân và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, thành phố Hà Nội đã giảm thiểu thấp nhất những thiệt hai do cơn bão gây ra, nhanh chóng phục hồi sản xuất. Tính chung 9 tháng năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,4% so với cùng kỳ, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,8%; chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 9,9%; chỉ số tồn kho cuối tháng Chín giảm 2,3%. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Chín ước tính giảm 2,7% so với tháng trước và tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,6% và tăng 5,6%; sản xuất và phân phối điện giảm 5,9% và tăng 2,1%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 4,8% và tăng 16,8%; ngành khai khoáng giảm 8,5% và tăng 14,5%. Ước tính quý III/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 4,2%; quý II tăng 5,7%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 4,7%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 11,4%; ngành khai khoáng tăng 9,2%. Một số ngành có chỉ số IIP quý III tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 56,3%; dệt tăng 21%; sản xuất trang phục tăng 14,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 12,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 10,5%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: In, sao chụp bản ghi giảm 5,8%; sản xuất thiết bị điện giảm 4,7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 4,6%. Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2023 tăng 2,5%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,9%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 10,1%; khai khoáng tăng 0,9%. Trong 9 tháng năm nay, một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất máy móc thiết bị tăng 26,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 12,6%; sản xuất trang phục tăng 9,3%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,7%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,6%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 5,6%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc giảm 1,9%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 1,5%; sản xuất xe có động cơ giảm 0,5%. Chỉ số tiêu thụ sản phẩm toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Chín tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm 2024 chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 9,9% so với cùng kỳ, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tăng như: Sản phẩm dệt tăng 33,6%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 29,4%; máy móc, thiết bị tăng 22,9%; giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,9%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,8%; xe có động cơ tăng 9%; trang phục tăng 8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ như: Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ giảm 36,3%; da và sản phẩm liên quan giảm 21,4%; kim loại giảm 8,9%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 8,1%. Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính thời điểm 30/9/2024 giảm 2,3% so với cùng thời điểm năm 2023, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm mạnh so với cùng kỳ: Sản xuất dệt giảm 77,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 59,5%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 30,2%; in, sao chép bản ghi giảm 24,5%. Một số ngành công nghiệp có chỉ số tồn kho tăng: Sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 42,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 23,5%; sản xuất trang phục tăng 21,9%; sản xuất kim loại tăng 18,8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 16,3%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Chín ước tính giảm 0,3% so với cuối tháng trước và tăng 0,3% với cùng thời điểm năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước giảm 4,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,3%; khu vực Nhà nước tăng 1,6 %. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2023; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,7%; ngành khai khoáng tăng 21,3%. 4. Đầu tư và xây dựng 4.1. Vốn đầu tư Trong quý III/2024, Thành phố tiếp tục tập trung chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị thi công tăng cường nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án trọng điểm. Tính chung 9 tháng năm nay, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn ước tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tăng 34,9%. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố quý III/2024 ước tính đạt 143,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18,8% so với thực hiện quý trước và tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn Nhà nước đạt 53,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,4% tổng vốn đầu tư và tăng 23% so với cùng kỳ; vốn ngoài nhà nước đạt 81,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 56,5% và tăng 3,6%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 8,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,1% và tăng 12%. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý III ước tính đạt 90,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,1% tổng vốn đầu tư và tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2023; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 36,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,6% và tăng 8,2%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 8,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,7% và tăng 6,3%; bổ sung vốn lưu động đạt 6,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,5% và tăng 8,6%; vốn đầu tư khác đạt 1,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,1% và tăng 3,4%. Tính chung 9 tháng năm 2024, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố đạt 351,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn Nhà nước đạt 130,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,8%; vốn ngoài nhà nước đạt 198,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,7%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Chín ước tính đạt 7.049 tỷ đồng, giảm 5,1% so với thực hiện tháng trước và tăng 38,4% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính quý III/2024 vốn đầu tư thực hiện đạt 21 nghìn tỷ đồng, tăng 46,3% so với quý II/2024 và tăng 44,9% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố thực hiện 7,8 nghìn tỷ đồng, tăng 40,5% và tăng 49,7%; NSNN cấp huyện thực hiện 12,3 nghìn tỷ đồng, tăng 51,8% và tăng 39,9%; NSNN cấp xã thực hiện 880 tỷ đồng, tăng 28,5% và tăng 84,9%. Tính chung 9 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 45,3 nghìn tỷ đồng, tăng 34,9% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 54,6% kế hoạch năm, trong đó: NSNN cấp Thành phố thực hiện 17,3 nghìn tỷ đồng, tăng 28,5% và đạt 48%; NSNN cấp huyện thực hiện 26 nghìn tỷ đồng, tăng 37,3% và đạt 59,8%; NSNN cấp xã thực hiện 2 nghìn tỷ đồng, tăng 67,9% và đạt 59,6%. Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Tháng Chín, thành phố Hà Nội thu hút 67,9 triệu USD vốn FDI, trong đó: 24 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 12,9 triệu USD; có 23 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 23,4 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần 25 lượt, đạt 31,6 triệu USD. Tính chung 9 tháng năm 2024, toàn Thành phố thu hút 1,5 tỷ USD vốn FDI, trong đó: Đăng ký cấp mới 197 dự án với số vốn đạt 1,1 tỷ USD; 143 lượt tăng vốn đầu tư với 220,7 triệu USD; 178 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 208,2 triệu USD. 4.2. Hoạt động xây dựng Sang quý III, cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, Thành phố tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu, các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm, phát triển hạ tầng, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội Thủ đô. Năm 2024 thành phố Hà Nội có 226 dự án đầu tư công xây dựng cơ bản tập trung, trong đó: 155 dự án chuyển tiếp với mức đầu tư 205,5 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn năm 2024 là 24,4 nghìn tỷ đồng); có 71 dự án mới được khởi công xây dựng trong năm với tổng mức đầu tư 7,2 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn trong năm là 1,1 nghìn tỷ đồng). Lĩnh vực giao thông với 58 dự án, chiếm 19,5% kế hoạch vốn. Đến nay các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn Thành phố đang khẩn trương thi công, sớm hoàn thành các hạng mục theo kế hoạch đặt ra. Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, dự án đang được các địa phương tích cực triển khai bàn giao mặt bằng để thi công toàn bộ dự án đảm bảo tiến độ đã đề ra. Đến thời điểm này, tổng vốn đã đầu tư cho dự án khoảng 12,6 nghìn tỷ đồng, tiến độ thi công xây lắp đạt 10,8%. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 37,8% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 8,8% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 8,6% kế hoạch vốn. Dự án Xây dựng Bệnh viện Nhi Hà Nội - giai đoạn 1: Với tổng mức đầu tư gần 785 tỷ đồng, dự án được xây dựng trên khu đất có tổng diện tích 67,9 nghìn m2 tại phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông. Quy mô dự án gồm 1 khối nhà cao 6 tầng có 2 đơn nguyên với năng lực thiết kế 200 giường bệnh nội trú. Dự kiến công trình gắn biển khánh thành vào ngày 08/10/2024 nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ Đô (10/10/1954 - 10/10/2024). Dự án Cung Thiếu nhi Hà Nội: Dự án được khởi công tháng 3/2021 với tổng mức đầu tư hơn 1,3 nghìn tỷ đồng. Công trình được xây dựng tại Khu công viên và hồ điều hòa CV1 thuộc Khu đô thị mới Cầu Giấy với tổng diện tích 39,6 nghìn m2, trong đó diện tích xây dựng 10,3 nghìn m2. Ngày 21/9/2024 công trình đã khánh thành đi vào hoạt động, đây là một trong các công trình lớn chào mừng kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô. 5. Hoạt động của doanh nghiệp 5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong 9 tháng năm 2024, mặc dù Thành phố đã có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp tuy nhiên nền kinh tế chưa phục hồi rõ nét đã ảnh hưởng đến niềm tin của doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 7,1% so với cùng kỳ; doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 18,7%; doanh nghiệp giải thể tăng 19,7%. Trong tháng Chín, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 1.153 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 47% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 7,9 nghìn tỷ đồng, giảm 65,2%; 397 doanh nghiệp hoạt động trở lại, giảm 11,7%; 818 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, giảm 16%; 278 doanh nghiệp giải thể, tăng 6,6%. Tính chung 9 tháng năm 2024, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 21,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 199 nghìn tỷ đồng, giảm 7,1% về số lượng doanh nghiệp và giảm 15,4% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 7,6 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 10,6%; 20,1 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 18,7%; hơn 3,3 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 21,1%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2024 cho thấy: Có 23,5% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2024 tốt hơn quý II/2024; 50,4% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 26,1% doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự báo 3 tháng cuối năm nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cao nên xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV là 36,6% số doanh nghiệp dự kiến sẽ tốt lên so với quý III; 43,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 19,7% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó: 80% số doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý IV sẽ tốt hơn và giữ ổn định so với quý III; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI lần lượt là 80% và 81,5%. 6. Thương mại, dịch vụ và du lịch 6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Quý III năm 2024, khu vực dịch vụ tiếp tục là điểm sáng, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng chung của Thành phố. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý III tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 9 tháng tăng 10,5%. Trong 9 tháng năm nay, thành phố Hà Nội triển khai công tác phát triển thương mại, dịch vụ văn minh, hiện đại; kết nối về thương mại điện tử với chủ đề “Doanh nghiệp Việt trong kỷ nguyên số”; tiếp tục chỉ đạo công tác bình ổn giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng; tập trung cung cấp hàng hóa, bảo đảm an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của người dân nhất là trong dịp Quốc khánh 2/9/2024; Chỉ đạo kịp thời đảm bảo cân đối cung - cầu hàng hóa; hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho nhân dân một số địa phương bị ảnh hưởng của cơn bão số 3 và tình hình mưa, lũ phức tạp sau bão. Công tác liên kết vùng giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố tiếp tục được đặc biệt quan tâm đẩy mạnh và thực sự mang lại rất nhiều kết quả tích cực. Nhiều sự kiện lớn trong và ngoài nước được tổ chức, tham dự đạt hiệu quả cao về kích cầu và quảng bá hình ảnh, sản vật Thủ đô như các hoạt động giao thương đặc sản tỉnh thành phố; Kết nối liên kết với 53 tỉnh, thành phố trong cả nước. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín ước tính đạt 73,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 45,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% và tăng 9%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% và tăng 8,7%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% và tăng 25,8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 14,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 18,3%. Ước tính quý III/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 214,3 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với quý trước và tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 2,9% và tăng 12%; khách sạn, nhà hàng tăng 16,5% và tăng 10,4%; du lịch lữ hành tăng 7,1% và tăng 29,8%; dịch vụ khác giảm 0,4% và tăng 9,7%. Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 619,7 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 391,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,2% tổng mức và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước (đá quý, kim loại quý tăng 38,6%; lương thực, thực phẩm tăng 13,4%; hàng may mặc tăng 9,8%; ô tô tăng 8,3%; xăng dầu tăng 7,3%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 6,8%; hàng hóa khác tăng 12,2%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 84,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,6% tổng mức và tăng 11,1% (dịch vụ lưu trú đạt 9,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,5% và tăng 32,6%; nhà hàng đạt 74,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1% và tăng 8,9%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 20,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,3% và tăng 41,1%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 123,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,9% và tăng 6,3% (giáo dục và đào tạo tăng 10,5%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 8,9%; dịch vụ khác tăng 8,6%; kinh doanh bất động sản tăng 8%; y tế tăng 7,5%). 6.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Hoạt động vận tải trong quý III tiếp tục duy trì tăng trưởng tích cực cả về vận chuyển hành khách và vận tải hàng hóa. Tổng doanh thu hoạt động vận tải và bưu chính chuyển phát quý III tăng 12,2% so với cùng kỳ, tính chung 9 tháng năm nay tăng 12,8%. Vận tải hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng Chín ước đạt 35,3 triệu lượt người, giảm 0,5% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1,1 tỷ lượt người.km, giảm 0,4% và tăng 5%; doanh thu ước tính đạt 1,9 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% và tăng 12,6%. Ước tính quý III, số lượt hành khách vận chuyển đạt 106,7 triệu lượt người, tăng 0,9% so với quý trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 3,2 tỷ lượt người.km, tăng 1,7% và tăng 6,6%; doanh thu đạt 5,6 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% và tăng 14,2%. Tính chung 9 tháng năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 312,9 triệu lượt người, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 9,3 tỷ lượt người.km, tăng 13,5%; doanh thu đạt 16,5 nghìn tỷ đồng, tăng 16,4%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Chín ước tính đạt 139,5 triệu tấn, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 13,2 tỷ tấn.km, tăng 0,6% và tăng 8,5%; doanh thu ước tính đạt 7,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% và tăng 11%. Ước tính quý III, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 412,1 triệu tấn, tăng 1,9% so với quý trước và tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 39,4 tỷ tấn.km, tăng 1,2% và tăng 9,6%; doanh thu đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 11,6%. Tính chung 9 tháng năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,2 tỷ tấn, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 116,8 tỷ tấn.km, tăng 12,6%; doanh thu đạt 68,5 nghìn tỷ đồng, tăng 14,4%. Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải tháng Chín ước tính đạt 7,7 nghìn tỷ đồng, giảm 0,2% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ. Doanh thu quý III đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với quý trước và tăng 11,9% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024, doanh thu đạt 67,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Chín ước tính đạt 1,1 nghìn tỷ đồng, giảm 0,3% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý III đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với quý trước và tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, doanh thu đạt 9,8 nghìn tỷ đồng, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước. 6.3. Du lịch Ngay từ đầu năm, ngành du lịch Thủ đô đã chú trọng đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch, điểm đến, các sản phẩm du lịch mới trên các kênh truyền thông, truyền hình trong nước và quốc tế. Với thông điệp xuyên suốt “Hà Nội điểm đến an toàn cho du khách” và “Hà Nội đến để yêu” đã tạo sức lan tỏa lớn, thu hút khách đến tham quan, du lịch. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách du lịch đến Hà Nội gần 4,6 triệu lượt người, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước. Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội quý III/2024 ước đạt 1,5 triệu lượt người, tăng 3,4% so với quý trước và tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách du lịch đến Hà Nội đạt gần 4,6 triệu lượt người, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế tháng Chín ước tính đạt 360 nghìn lượt người, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 32% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý III/2024 đạt 1.023 nghìn lượt người, tăng 1,5% so với quý trước và tăng 30,8% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách quốc tế đến Hà Nội đạt 3.156 nghìn lượt người, tăng 41,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 371,2 nghìn lượt người, tăng 11,9%; Trung Quốc 363,8 nghìn lượt người, tăng 75,1%; Mỹ 201,2 nghìn lượt người, tăng 24,9%; Nhật Bản 191 nghìn lượt người, tăng 27,2%; Anh 169,3 nghìn lượt người, tăng 44,8%; Pháp 144,9 nghìn lượt người, tăng 57,8%; Đức 103,7 nghìn lượt người, tăng 50,4%; Ma-lai-xi-a 81,6 nghìn lượt khách, tăng 15,5%; Xin-ga-po 67,8 nghìn lượt người, tăng 6,6%; Thái Lan 51,4 nghìn lượt người, giảm 23,9%. Khách du lịch nội địa tháng Chín ước tính đạt 174 nghìn lượt người, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý III/2024 đạt 512 nghìn lượt người, tăng 7,4% so với quý trước và tăng 8,4% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách nội địa đến Hà Nội đạt 1.405 nghìn lượt người, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2023. Tình hình hoạt động các cơ sở lưu trú: Tính đến cuối tháng Chín, trên địa bàn Hà Nội có 3.761 cơ sở lưu trú du lịch với gần 71,3 nghìn phòng, trong đó có 607 khách sạn được xếp hạng từ 1-5 sao với 26,5 nghìn phòng, chiếm 16,1% tổng số cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn và 36,2% tổng số phòng. Trong tháng Chín, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao ước đạt 64,3%, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm nay, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao đạt 62,6% (9T/2021 đạt 21,4%; 9T/2022 đạt 34,1%; 9T/2023 đạt 61%). 6.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Trong 9 tháng năm 2024 hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn Thành phố phục hồi ấn tượng với tổng kim ngạch đạt 44,9 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 14,4 tỷ USD, tăng 16,8%; nhập khẩu đạt 30,5 tỷ USD, tăng 13%. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Chín ước tính đạt 1,9 tỷ USD, giảm 0,8% so với tháng trước và tăng 34,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 1,1 tỷ USD, giảm 1,1% và tăng 32%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 785 triệu USD, giảm 0,4% và tăng 38,1%. Trong tháng, phần lớn các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 318 triệu USD, tăng 79%; hàng dệt may đạt 259 triệu USD, tăng 61,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 259 triệu USD, tăng 92,5%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 208 triệu USD, tăng 13,1%; hàng nông sản đạt 112 triệu USD, tăng 12,7%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 70 triệu USD, tăng 10,2%; hàng hóa khác đạt 483 triệu USD, tăng 18,3%. Riêng nhóm hàng xăng dầu đạt 87 triệu USD, giảm 33,8%. Ước tính quý III kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 5,6 tỷ USD, tăng 21,3% so với quý II và tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 14,4 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,5 tỷ USD, tăng 20,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,9 tỷ USD, tăng 11,8%. Các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ trong 9 tháng năm nay: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 2,2 tỷ USD, tăng 25,4%; hàng dệt may đạt 1,8 tỷ USD, tăng 11%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 29,2%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 10,4%; hàng nông sản đạt 1,1 tỷ USD, tăng 42,9%; xăng dầu đạt 1 tỷ USD, tăng 2,7%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 600 triệu USD, tăng 6,7%; hàng hóa khác đạt 3,6 tỷ USD, tăng 14,7%. Riêng giầy dép và các sản phẩm từ da đạt 270 triệu USD, giảm 8,2%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Chín ước tính đạt 3,6 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước và tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 3 tỷ USD, giảm 0,5% và giảm 1,2; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 608 triệu USD, giảm 0,4% và tăng 18,3%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị phụ tùng đạt 642 triệu USD, tăng 37,8%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 250 triệu USD, tăng 33,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 204 triệu USD, tăng 41,4%; kim loại khác đạt 128 triệu USD, tăng 40,6%; chất dẻo đạt 118 triệu USD, tăng 5%; vải đạt 78 triệu USD, tăng 4,4%; ngô đạt 74 triệu USD, tăng 21,4%; sản phẩm hóa chất đạt 73 triệu USD, tăng 13,4%. Trong tháng Chín, 3/14 nhóm hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 293 triệu USD, giảm 39,3%; sắt thép đạt 173 triệu USD, giảm 13,8%; hàng hóa khác đạt 1,4 tỷ USD, giảm 7,6%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý III ước đạt 10,9 tỷ USD, tăng 5,2% so với quý II và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 30,5 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,4 tỷ USD, tăng 14,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,1 tỷ USD, tăng 7,5%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong 9 tháng năm nay: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 5,2 tỷ USD, tăng 22,9%; xăng dầu đạt 3,6 tỷ USD, giảm 10,4%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 1,9 tỷ USD, tăng 16,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 24,1%; sắt thép đạt 1,5 tỷ USD, tăng 20,8%; kim loại khác đạt 1,1 tỷ USD, tăng 51,5%; chất dẻo đạt 1 tỷ USD, tăng 7,8%; hàng hóa khác đạt 11 tỷ USD, tăng 14,6%. 7. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Chín tăng 0,66% so với tháng trước, tăng 1,95% so với tháng 12/2023 và tăng 2,01% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 9 tháng năm nay tăng 4,88% so với bình quân 9 tháng năm 2023. Trong tháng Chín, có 9/11 nhóm hàng chỉ số giá tiêu dùng tăng so với tháng trước, trong đó tác động nhiều nhất là nhóm hàng ăn, dịch vụ ăn uống tăng 1,66% làm tăng CPI chung 0,52% do ảnh hưởng của cơn bão số 3 đẩy giá thực phẩm tăng cao 2,04%; giá lương thực tăng 1,11%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,88%. Nhóm giáo dục tăng 2,44% (tác động làm tăng CPI chung 0,19%) do học sinh các cấp bước vào năm học mới nên nhiều chi phí cho hoạt động giáo dục tăng lên. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,88% (tác động làm tăng CPI chung 0,18%) do nhu cầu thuê nhà của học sinh, sinh viên các trường đại học tăng cao nên giá tiền thuê nhà tăng 1,21%, đồng thời giá một số vật liệu xây dựng như xi măng, đá, cát, sỏi tăng nên chỉ số giá nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở chính tăng 0,87%. Các nhóm còn lại CPI tăng nhẹ: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,16%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,1%; thuốc và dịch vụ y tế; may mặc, mũ nón, giày dép; thiết bị và đồ dùng gia đình cùng tăng 0,03%; một số hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,09%. Bên cạnh đó, có 2/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm giao thông giảm 2,31% (tác động làm giảm CPI chung 0,23%) do bình quân trong tháng giá xăng giảm 6,81% so với tháng trước, giá dầu diezen giảm 8,42%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,19%. Bình quân quý III/2024, CPI tăng 3,97% so với bình quân quý III/2023, trong đó 9/11 nhóm hàng có CPI tăng: Giáo dục tăng 11,85%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,17%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,36%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 3,13%; đồ uống, thuốc lá tăng 2,15%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,57%; thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,29%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,17%. Có 2/11 nhóm hàng CPI bình quân quý III năm nay giảm so với bình quân cùng kỳ: Bưu chính viễn thông giảm 1,01%; giao thông giảm 0,87%. Bình quân 9 tháng năm 2024, CPI tăng 4,88% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 24,62% (tác động làm CPI bình quân chung 9 tháng năm nay tăng 1,95%) do 3 tháng đầu năm 2024 các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,16% (tác động làm CPI tăng 1,25%) do bình quân 9 tháng năm 2024 sản lượng tiêu thụ điện tăng dẫn đến giá điện bình quân tăng 8,27% so với bình quân cùng kỳ; giá nước tăng 30,43%; giá nhà thuê tăng 8,51%. Thuốc và dịch vụ y tế tăng 4,82% (tác động làm CPI tăng 0,25%); Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,3% (tác động làm CPI tăng 1,02%) do 9 tháng năm nay giá lương thực tăng 11,24% (trong đó giá gạo tăng 15,23%); thực phẩm tăng 2,46%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,63%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,48% (tác động làm CPI tăng 0,05%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,79% (tác động làm CPI tăng 0,1%); giao thông tăng 1,49% (tác động làm CPI tăng 0,15%); văn hóa, giải trí, du lịch tăng 1,19% (tác động làm CPI tăng 0,06%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,15% (tác động làm CPI tăng 0,01%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,75% (tác động làm CPI tăng 0,32%) chủ yếu do giá đồ trang sức tăng 29,64% và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 23,8%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông trong 9 tháng năm 2024 giảm 1,27% (tác động làm giảm CPI 0,04%). Chỉ số giá vàng tháng Chín tăng 1,94% so với tháng trước, tăng 27,47% so với tháng 12/2023 và tăng 38,75% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý III/2024 chỉ số giá vàng tăng 37,11% so với bình quân quý III/2023. Bình quân 9 tháng năm nay, chỉ số giá vàng tăng 29,81% so với bình quân 9 tháng năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Chín giảm 1,89% so với tháng trước, tăng 1,74% so với tháng 12/2023 và tăng 2,38% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý III/2024 chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,1% so với quý III/2023. Bình quân 9 tháng năm nay, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,37% so với bình quân 9 tháng năm trước. 8. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán Tính chung 9 tháng năm nay, thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách địa phương tăng 20,2%; các tổ chức tín dụng tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng. 8.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 9 tháng năm 2024 ước thực hiện 379 nghìn tỷ đồng, đạt 92,8% dự toán pháp lệnh năm và tăng 23,1% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Thu nội địa 355,4 nghìn tỷ đồng, đạt 93,9% và tăng 23,6%; thu từ dầu thô 3,2 nghìn tỷ đồng, đạt 105,4% và tăng 3,8%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 19,6 nghìn tỷ đồng, đạt 72,7% và tăng 14,3%. Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 9 tháng năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 59,4 nghìn tỷ đồng, đạt 84,2% dự toán năm và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 23,1 nghìn tỷ đồng, đạt 86,5% và tăng 18,9%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 73 nghìn tỷ đồng, đạt 92,9% và tăng 26,3%; thuế thu nhập cá nhân 38,3 nghìn tỷ đồng, đạt 93,4% và tăng 25,3%; thu tiền sử dụng đất 32 nghìn tỷ đồng, đạt 88,6% và gấp 5 lần cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 5,3 nghìn tỷ đồng, đạt 81% tăng 12,6%; thu phí và lệ phí 18,3 nghìn tỷ đồng, đạt 94,1% và tăng 27,7%. Chi ngân sách địa phương 9 tháng năm 2024 ước thực hiện 70,5 nghìn tỷ đồng, đạt 48,1% dự toán năm và tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chi đầu tư phát triển 31,9 nghìn tỷ đồng, đạt 39,3% và tăng 27,2%; chi thường xuyên 38,5 nghìn tỷ đồng, đạt 67,3% và tăng 15,1%. Một số lĩnh vực chi chủ yếu trong chi thường xuyên ngân sách địa phương 9 tháng năm 2024: Chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề ước thực hiện 14,2 nghìn tỷ đồng, đạt 80,7% dự toán và tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính Nhà nước 6,6 nghìn tỷ đồng, đạt 74,5% và tăng 22,1%; chi các hoạt động kinh tế 5,9 nghìn tỷ đồng, đạt 47,7% và giảm 5,2%; chi đảm bảo xã hội 3,6 nghìn tỷ đồng, đạt 69% và tăng 17,9%; chi y tế, dân số và gia đình 2,5 nghìn tỷ đồng, đạt 77% và tăng 2,1%; chi bảo vệ môi trường 1,6 nghìn tỷ đồng, đạt 50,8% và tăng 20,6%. 8.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Trong 9 tháng năm 2024, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định, lãi suất huy động tương đối ổn định, mặt bằng lãi suất huy động ở mức thấp. Thời điểm tháng 9/2024 lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước phổ biến ở mức 0,2 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 2,4 - 4,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,3 - 5,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 5,8 - 7%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,9 - 9,3%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,6%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Các NHTM trên địa bàn tiếp tục tiết giảm chi phí, thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 9/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.611 nghìn tỷ đồng, tăng 0,71% so với cuối tháng trước và tăng 5,16% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó tiền gửi đạt 4.961 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% và tăng 6,24%; phát hành giấy tờ có giá đạt 650 nghìn tỷ đồng, tăng 0,04% và giảm 2,43%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 9/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.072 nghìn tỷ đồng, tăng 0,78% so với cuối tháng trước và tăng 12,59% so với thời điểm cuối năm 2023, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 1.736 nghìn tỷ đồng, tăng 0,47% và tăng 15,38%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.336 nghìn tỷ đồng, tăng 1,01% và tăng 10,59%. Tính đến cuối tháng 9/2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,69% trong tổng dư nợ. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Các TCTD tích cực nâng cao năng lực quản lý rủi ro đối với các khoản vay thông qua hệ thống cảnh báo sớm nhằm phát hiện các khoản vay có vấn đề. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 13,97% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,9%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,14%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,32%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%. 8.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết tháng 8/2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.190 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 312 doanh nghiệp và Upcom có 878 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 603,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 156,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,1% và tăng 5,1%; Upcom đạt 446,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% và tăng 4,9%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng của tháng Tám đạt 1.799 nghìn tỷ đồng, giảm 1,1% so với tháng trước và tăng 28,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 332 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 8,4%; Upcom đạt 1.467 nghìn tỷ đồng, giảm 1,6% và tăng 34,3%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tháng Tám, khối lượng giao dịch đạt 1.338 triệu CP được chuyển nhượng, giảm 2,3% so với tháng trước và giảm 53,2% so với cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 26,7 nghìn tỷ đồng, giảm 8,7% và giảm 47,1%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh đạt 1.216 triệu CP, giảm 2,3% và giảm 55,3%; giá trị đạt 23,5 nghìn tỷ đồng, giảm 7,9% và giảm 50,6%. Tính chung 8 tháng năm 2024, khối lượng giao dịch đạt 13,7 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 276,5 nghìn tỷ đồng, giảm 13,3% về khối lượng và tăng 12,1% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Tám, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 297 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 25 mã giao dịch; cá nhân 272 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 8 tháng năm 2024 đạt 1.114 nghìn tài khoản. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Giải quyết việc làm Trong 9 tháng năm 2024, tình hình kinh tế - xã hội ổn định, các doanh nghiệp tích cực tuyển dụng lao động nhằm phục vụ cho việc sản xuất đơn hàng mới, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đưa các dự án trọng điểm đi vào hoạt động, từ đó thúc đẩy sự phục hồi của thị trường lao động. Tính chung 9 tháng năm nay, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 178,8 nghìn lao động, vượt 8,3% kế hoạch cả năm, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2023. Trong tháng Chín, Thành phố giải quyết việc làm cho 14,7 nghìn lao động; tiếp nhận, thẩm định và ra quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp 8,5 nghìn trường hợp với số tiền hỗ trợ 270 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng năm nay, toàn Thành phố giải quyết việc làm cho 178,8 nghìn lao động, đạt 108,3% kế hoạch cả năm, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho đối tượng nghèo, đối tượng chính sách xã hội vay với tổng số tiền là 3,4 nghìn tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 47,3 nghìn lao động; Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tổ chức thành công 193 phiên giao dịch việc làm với 5,7 nghìn đơn vị và doanh nghiệp tham gia, sau khi kết thúc phiên giao dịch có 13,6 nghìn người được tuyển dụng; gần 3,4 nghìn người được giải quyết đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng tại thị trường Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc; 114,5 nghìn người tự tạo việc làm qua tư vấn, giới thiệu việc làm của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm trên địa bàn Thành phố. Cũng trong 9 tháng năm 2024, Thành phố ra quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 58,9 nghìn người với số tiền hỗ trợ 1.798 tỷ đồng; hỗ trợ học nghề cho 842 người với số tiền gần 3,4 tỷ đồng. 2. Bảo đảm an sinh xã hội Công tác bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được Thành phố và các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Hoạt động thăm hỏi, tặng quà và hỗ trợ người dân gặp hoàn cảnh khó khăn sau cơn bão số 3 được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng. Ảnh hưởng siêu bão Yagi (cơn bão số 3): Ngày 07/9/2024 thành phố Hà Nội chịu ảnh hưởng trực tiếp khi nằm gần tâm bão với sức gió mạnh cấp 7, giật cấp 9, có mưa to đến rất to, lượng mưa từ phổ biến 80-150mm, có nơi 200mm. Sau khi bão tan, lũ từ thượng nguồn đổ về gây ra ngập lụt diện rộng trên địa bàn Thành phố, một số địa điểm của huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức, Quốc Oai bị ngập úng sâu. Theo đánh giá ban đầu cập nhật tình hình thiệt hại đến thời điểm 7h ngày 25/9/2024 của Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn thành phố Hà Nội, cơn bão số 3 đã gây thiệt hại: Về người: Mưa to, gió lớn, cây đổ gãy, mái tôn rơi làm chết 4 người và 28 người bị thương. Để đảm bảo an toàn cho người dân, chính quyền các cấp đã chỉ đạo di dời trên 19,7 nghìn hộ dân với hơn 85 nghìn người đến nơi tránh trú an toàn. Về hạ tầng kỹ thuật: Trên địa bàn Thành phố ghi nhận hơn 105,5 nghìn cây xanh đô thị gẫy đổ, bật gốc; 192 nghìn mét đường giao thông nội đồng, 74 nghìn mét đường giao thông nông thôn bị ngập; 5,5 nghìn mét đường giao thông khu vực nông thôn bị sạt lở; 1,3 nghìn cột điện bị gẫy đổ, trên 720 sự cố điện và một số cột đèn chiếu sáng, trạm biến áp bị hỏng gây mất điện tại nhiều địa phương. Về thủy lợi đê điều: Trên 21 nghìn mét kênh mương và 126 cống, đập bị hư hỏng, 47 nghìn mét bờ đê, kênh bị tràn, trên 8,7 nghìn mét đê bị sạt lở. Về hạ tầng công cộng: Có 64 điểm dân cư, 34 di tích, đình chùa, 75 trường học, 156 công trình là công sở, trạm y tế, nhà văn hóa bị ngập, 834 điểm bị sạt lở đất. Về hạ tầng dân cư: Mưa bão làm ngập trên 7,4 nghìn hộ dân (từ 0,2 đến 2m), sập đổ 478 ngôi nhà, 4.134 ngôi nhà bị hư hại, tốc mái, hơn 108 nghìn m2 chuồng trại bị sập đổ, trên 39 nghìn m2 tường bao bị đổ. Về sản xuất nông nghiệp: Một số quận và khu vực ngoại thành, mưa lớn kèm gió to làm trên 6,6 nghìn ha lúa bị thiệt hại; 4,6 nghìn ha diện tích lúa bị hư hại; hơn 2,3 nghìn ha rau màu bị hỏng; hơn 9 nghìn ha cây ăn quả; 320 ha cây trồng khác và 545 ha diện tích rừng bị ảnh hưởng; hơn 4,2 nghìn ha thủy sản bị ngập; trên 2,8 nghìn con gia súc bị chết; hơn 462 nghìn gia cầm bị chết hoặc thất lạc; 1,8 tấn ếch bị mất. Thiệt hại khác: Mưa bão và hoàn lưu của cơn bão số 3 đã làm 283 ô tô và 1.588 xe máy bị hỏng do cây đổ hoặc ngập nước, 4 tàu nhỏ bị đắm, trên 360 biển quảng cáo bị rơi. Hiện tại các cơ quan chức năng đang tập trung lực lượng khắc phục sự cố sau bão và đánh giá thiệt hại do cơn bão gây ra và động viên, thăm hỏi các gia đình có người thân không may bị chết và bị thương do bão số 3 và khôi phục công việc sản xuất kinh doanh. Trước, trong và sau bão, Thành phố đã huy động toàn bộ hệ thống chính trị đoàn kết chủ động ứng phó và khắc phục hậu quả cơn bão để giảm thiệt hại về người và tài sản ở mức thấp nhất, khắc phục các sự số để ổn định cuộc sống của người dân. Ủy ban Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam Thành phố đã triển khai đến MTTQ Việt Nam các cấp và Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư tiếp tục thực hiện các chỉ đạo của Trung ương và Thành phố về công tác ứng phó và khắc phục hậu quả của cơn bão số 3. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố đã ban hành Lời kêu gọi, Kế hoạch vận động Nhân dân Thủ đô ủng hộ các tỉnh bị thiệt hại do bão lũ, công văn tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện khắc phục hậu quả cơn bão số 3 và đã triển khai đến MTTQ Việt Nam các cấp, các tổ chức thành viên và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, Nhân dân trên địa bàn Thành phố. Bảo đảm an sinh xã hội: Trong quý III/2024, theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, Thành phố thực hiện tốt việc chăm lo, thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách, cán bộ lão thành cách mạng nhân dịp Kỷ niệm 79 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhân dịp này Thành phố Hà Nội tặng gần 2,9 nghìn suất quà tương đương 6,1 tỷ đồng đến các đối tượng chính sách theo quy định. Tính chung 9 tháng năm 2024, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 8,2 nghìn hồ sơ hưởng chế độ người có công và thân nhân người có công. Tổng kinh phí chi cho công tác ưu đãi người có công là 1.930 tỷ đồng, trong đó thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp gần 79 nghìn người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 1.633 tỷ đồng; chi trả trợ cấp một lần là 155 tỷ đồng; chi quà Lễ, Tết 71 tỷ đồng; chi điều dưỡng người có công 70,5 tỷ đồng. Đến nay, toàn Thành phố đã xây dựng, ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa được trên 33,7 tỷ đồng, đạt 147,6% kế hoạch năm; tặng 1.734 sổ tiết kiệm “Tình nghĩa” với kinh phí 5,4 tỷ đồng, đạt 139,3%; tu sửa nâng cấp 53 công trình ghi công liệt sĩ với kinh phí 157,3 tỷ đồng, đạt 171%; vận động xã hội hóa cho việc tu sửa nâng cấp 159 nhà ở cho hộ gia đình người có công với cách mạng, kinh phí 6,5 tỷ đồng, đạt 119,5%; các Mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn Thành phố được chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo. Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo cũng được Thành phố quan tâm thực hiện, từ đầu năm đến nay đã có 714 ngôi nhà được khởi công xây dựng, sửa chữa, đạt 100% kế hoạch năm, trong đó đã hoàn thành xây mới, sửa chữa 674 nhà, đạt 94,4%. Tính đến cuối tháng Chín, toàn Thành phố có 203 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng với tổng kinh phí chi trả 9 tháng năm 2024 là 1.326 tỷ đồng. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.016 đối tượng bảo trợ xã hội là người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,8 triệu đồng/người/tháng (riêng trẻ em dưới 4 tuổi là 2,2 triệu đồng/tháng) và chi khác 350 nghìn đồng/tháng. 3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội Chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế 9 tháng năm 2024 tiếp tục được Thành phố tổ chức thực hiện hiệu quả; tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng. Theo kế hoạch Thành phố giao năm 2024, tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 94,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 45% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 40% lực lượng lao động. Tính đến hết tháng 9/2024 theo Báo cáo của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 94,4% dân số với 8.019 nghìn người tham gia, tăng 1% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.118 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 45% lực lượng trong độ tuổi lao động), tăng 2,9% và tăng 5,3%; gần 96,5 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,5%), tăng 17,4% và tăng 23,1%. Số người tham gia BHTN là 2.050 nghìn người (chiếm 43%), tăng 3% và tăng 5,4%. Tính đến cuối tháng 9/2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 50 nghìn tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 55,9 nghìn tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng là 33,6 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 18,3 nghìn tỷ đồng). 4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề Tháng Chín, ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cùng hơn 2,2 triệu học sinh trên địa bàn Thành phố Khai giảng năm học mới. Quyết tâm thực hiện tốt chủ đề năm học: “Kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo” Trong quý III/2024, Thành phố đã hoàn thành công tác tuyển sinh đầu các cấp năm học 2024 - 2025, kết quả: Tuyển sinh trực tuyến lớp 1 với 120,2 nghìn lượt hồ sơ, đạt 90,9% đăng ký thành công; lớp 6 với 130,8 nghìn hồ sơ, đạt 90,1%; lớp 10 với 131,8 nghìn học sinh, đạt 88,7% chỉ tiêu kế hoạch. Ngày 5/9/2024, Ngành giáo dục Thủ đô cùng cả nước khai giảng năm học mới 2024-2025.Trong năm học này, Thành phố đã chuẩn bị tốt các điều kiện về chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, mua sắm bổ sung tài sản, thiết bị dạy học cho các trường, trong đó đặc biệt ưu tiên các trường thành lập mới, các trường xây dựng mới và các trường công nhận lại chuẩn quốc gia. Trong năm học này, toàn Thành phố có 2.913 trường mầm non, phổ thông các cấp (tăng 39 trường so với năm học trước), 01 trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục và 29 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên với 70,2 nghìn lớp học; năm học này có 2.238 nghìn học sinh (tăng khoảng 48 nghìn học sinh so với năm học trước) và 130 nghìn giáo viên. Tính đến giữa tháng Chín, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 64,5%, trong đó mầm non 55,5%; tiểu học 72,8%; trung học cơ sở 81%; trung học phổ thông 37,1%. Trong 9 tháng năm nay, chất lượng giáo dục, đào tạo Hà Nội luôn được giữ vững. Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2024 đoàn Hà Nội đạt 184 giải (14 giải nhất, 61 giải nhì, 54 giải ba và 55 giải khuyến khích); kỳ thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, đoàn Hà Nội đạt 03 giải (2 giải nhất, 1 giải ba); kỳ thi Thiên văn và Vật lý Thiên văn quốc tế lần thứ 17 tại Brazil giành 5 huy chương (2 huy chương bạc và 3 huy chương đồng); kỳ thi Olympic Sinh học Quốc tế (IBO) lần thứ 35 Hà Nội có 1 học sinh xuất sắc giành Huy chương Vàng và tại kỳ thi Olympic Hóa học quốc tế năm 2024, Hà Nội cũng giành 1 Huy chương Vàng. Bên cạnh đó, Hà Nội có 7 dự án của học sinh tham gia cuộc thi "Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp'' lần thứ VI, tất cả đã xuất sắc vượt qua hơn 700 dự án của các tác giả, nhóm tác giả trên toàn quốc với 2 dự án đạt giải Nhất, 2 dự án giải Nhì và 3 dự án giải Ba. Về giáo dục nghề nghiệp, hiện nay trên địa bàn Thành phố có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở đăng ký hoạt động giáo dục nghề, trong đó: 66 trường cao đẳng, 59 trường trung cấp, 38 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, 18 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 132 doanh nghiệp, loại hình khác. Tính chung 9 tháng năm 2024, các cơ sở có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Thành phố đã tuyển sinh, đào tạo nghề cho 206,8 nghìn lượt người (trong đó 28,7 nghìn người trình độ cao đẳng; 26,3 nghìn người trình độ trung cấp; 151,8 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng), đạt 88% kế hoạch tuyển sinh năm 2024, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2023. 5. Tình hình dịch bệnh Sau khi bão số 3 (Yagi) đi qua, ô nhiễm môi trường kéo theo nguy cơ bùng phát các bệnh thường gặp như: Tiêu hóa, da liễu, sốt xuất huyết, đau mắt... Ngành Y tế Thủ đô đã chủ động về nhân lực, trang thiết bị, thuốc, vật tư, sẵn sàng công tác đáp ứng y tế, phòng, chống dịch bệnh. Nhìn chung trong 9 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố không xảy ra dịch bệnh lớn. Theo báo cáo của Sở Y tế Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 15/8 đến ngày 14/9/2024 tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue có xu hướng tăng, trong tháng ghi nhận 1.108 ca mắc, tăng 425 ca so với tháng trước; cộng dồn từ đầu năm 2024 đến nay Thành phố ghi nhận 2.966 ca mắc (cùng kỳ năm 2023 có 10.372 ca mắc, 3 ca tử vong). Bệnh Tay chân miệng ghi nhận 165 ca mắc, tăng 27 ca; cộng dồn từ đầu năm có 1.961 ca mắc (cùng kỳ 1.518 ca mắc). Số ca mắc Covid-19 ghi nhận 83 người, cộng dồn 1.205 ca mắc (cùng kỳ 19,6 nghìn ca). Ho gà 12 ca mắc, cộng dồn 228 ca mắc (cùng kỳ không có ca mắc). Bệnh thủy đậu 64 ca mắc; cộng dồn 748 ca mắc (cùng kỳ 1.990 ca mắc). Liên cầu lợn 1 ca mắc, cộng dồn 8 ca mắc, 1 tử vong (cùng kỳ 15 ca mắc, 2 tử vong). Uốn ván 1 ca mắc, cộng dồn 13 ca mắc, 1 tử vong (cùng kỳ 21 ca mắc, 2 tử vong). Các bệnh truyền nhiễm khác xuất hiện rải rác không đáng kể, Hà Nội chưa ghi nhận ca mắc đậu mùa khỉ, bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Cũng theo báo cáo, tình hình dịch bệnh trong khu vực ngập lụt do ảnh hưởng của bão số 3 có 508 người mắc bệnh về da, 42 người mắc bệnh tiêu hóa, 117 người mắc bệnh về mắt, 01 ca mắc sốt xuất huyết. Ngay khi cơn bão qua, các Trung tâm y tế đã chủ động cấp phát thuốc phòng bệnh gồm thuốc kháng sinh đường ruột, thuốc bôi ngoài da, men tiêu hóa, thuốc nhỏ mắt cho người dân tại các điểm ngập úng. Đồng thời cấp phát thuốc, hóa chất khử trùng với 5.450 kg Cloramin B, 620 kg vôi bột, 30,4 kg phèn chua phục vụ cho công tác xử lý nước, môi trường. Đến nay, Ngành Y tế tiếp tục triển khai các hoạt động tổng vệ sinh môi trường khi nước rút, theo phương châm "nước rút đến đâu làm vệ sinh môi trường đến đó", tổ chức thu gom xử lý xác động vật phát sinh các bệnh truyền nhiễm, phun hóa chất diệt côn trùng truyền bệnh tại các khu vực có nguy cơ cao. Cũng trong 9 tháng năm nay, Hà Nội đẩy mạnh công tác quản lý an toàn thực phẩm, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, chủ động phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm, khống chế không để ngộ độc thực phẩm nhất là những nơi đông người gây tử vong góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định an toàn xã hội và nâng cao đời sống người dân. 6. Hoạt động văn hóa, thể thao Trong 9 tháng năm 2024, hoạt động văn hóa nghệ thuật, lễ hội, vui chơi, giải trí diễn ra sôi động. Tại các di tích lịch sử thu hút lượng lớn khách đến tham quan với hơn 2,5 triệu lượt người, hoàn thành kế hoạch cả năm. Hoạt động thể thao tiếp tục được quan tâm thực hiện, mang về nhiều huy chương tại các giải đấu chuyên nghiệp trong nước và quốc tế. Hoạt động văn hóa: Trong 9 tháng năm 2024, Thành phố tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị quan trọng của Thủ đô và đất nước, trong đó đã thực hiện 7 cuộc trưng bày sách, báo lớn: Kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với chủ đề “Đảng với mùa xuân đất nước”; Hội nghị tọa đàm “Xây dựng hệ giá trị gia đình Thủ đô và chuẩn mực người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Thực trạng và giải pháp”; “Đảng với mùa xuân đất nước” kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Giáp Thìn; chuyên đề hưởng ứng ngày Quốc tế hạnh phúc chủ đề “Hạnh phúc cho mọi người”; kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ; chuyên đề “Hồ Chí Minh - Trọn cuộc đời vì nước vì dân” kỷ niệm 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó tổ chức 12 phòng đọc chuyên đề kỷ niệm các ngày Lễ, sự kiện của đất nước và tổ chức thành công 12 cuộc triển lãm lớn phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước. Cũng trong 9 tháng năm 2024, các di tích trên địa bàn Thành phố đã đón hơn 2,5 triệu lượt khách tham quan; doanh thu phí đạt 138,5 tỷ đồng, vượt 82% kế hoạch năm (9 tháng năm 2023 đón 2,5 triệu lượt khách, thu ngân sách 68 tỷ đồng). Các đơn vị nghệ thuật đã tổ chức 1,7 nghìn buổi biểu diễn, đạt 75% kế hoạch; thu hút 634,8 nghìn lượt khán giả, đạt 75,3%; doanh thu 39,9 tỷ đồng, đạt 82,3% (9 tháng năm 2023, tổ chức 1,4 nghìn buổi biểu diễn, thu ngân sách 28,3 tỷ đồng). Hoạt động thể thao: Trong tháng Chín, Thành phố tiếp tục cử các đoàn huấn luyện viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế, đồng thời phối hợp tổ chức các giải thi đấu chuyên nghiệp theo kế hoạch. Tính chung 9 tháng năm 2024, thể thao thành tích cao Hà Nội đạt được 2.556 huy chương, trong đó: 195 huy chương tại các giải đấu quốc tế (80 huy chương Vàng, 56 huy chương Bạc, 59 huy chương Đồng); 2.361 huy chương tại các giải đấu trong nước (882 huy chương Vàng, 716 huy chương Bạc, 763 huy chương Đồng). 7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Chín (từ 15/8/2024 đến 14/9/2024) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng đã phát hiện 638 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 325 vụ do công an khám phá được. Số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 624 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 209 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 231 đối tượng, thu nộp ngân sách 15 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 38 vụ cờ bạc, bắt giữ 157 đối tượng. Tổng số vụ vi phạm pháp luật về ma túy bị phát hiện là 201 vụ, bắt giữ 319 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 197 vụ với 292 đối tượng. Tai nạn giao thông: Trong tháng, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 112 vụ tai nạn giao thông làm 55 người chết và 88 người bị thương. Trong đó: 109 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 53 người chết và 87 người bị thương; 3 vụ tai nạn đường sắt làm 2 người chết và 1 người bị thương. Chia theo mức độ nghiêm trọng, trong các vụ tai nạn có 63 vụ nghiêm trọng làm 55 người chết và 23 người bị thương; 49 vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm làm 65 người bị thương. Cộng dồn 9 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 1.140 vụ tai nạn giao thông (tăng 712 vụ so với cùng kỳ năm 2023) làm 494 người chết (tăng 282 người) và 950 người bị thương (tăng 613 người). Trong đó: 1.120 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 479 người chết và 945 người bị thương; 20 vụ tai nạn đường sắt làm 15 người chết và 5 người bị thương. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng, phát hiện 622 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 632 đối tượng; số vụ vi phạm về bảo vệ môi trường bị xử lý là 612 vụ với 626 đối tượng; thu nộp ngân sách hơn 5,4 tỷ đồng. Cũng trong tháng Chín, trên địa bàn Thành phố xảy ra 122 vụ cháy làm 3 người bị thương, trong đó 1 vụ cháy lớn; 16 vụ cháy trung bình và 105 vụ cháy nhỏ. Hiện tại cơ quan chức năng đang tiếp tục xác minh thiệt hại về tài sản. Cộng dồn 9 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố phát hiện 6.724 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 6.770 đối tượng; xảy ra 926 vụ cháy làm 25 người chết và 14 người bị thương (9 tháng năm 2023 xảy ra 186 vụ cháy làm 69 người chết và 48 người bị thương). Khái quát lại, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn gặp khó khăn, ảnh hưởng do mưa bão gây thiệt hại trong đời sống và sản xuất nhưng với sự chủ động, chỉ đạo quyết liệt của Thành phố, kinh tế - xã hội Thủ đô đã đạt được các kết quả quan trọng: GRDP 9 tháng nay tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước; thu NSNN trên địa bàn tăng 23,1% và đạt 92,8% dự toán cả năm; vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tăng 34,9%; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 14,2%; khách du lịch đến Thủ đô gần 4,6 triệu lượt người, tăng 31,3%; tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tăng 10,5%, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục tiếp tục phát triển, an sinh xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, trong 9 tháng qua kinh tế Thành phố cũng gặp nhiều khó khăn: Tốc độ tăng trưởng chậm so với kế hoạch; sản xuất công nghiệp, xây dựng chưa bứt phá được như kỳ vọng; sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai; số vụ cháy nổ và an toàn giao thông tăng cao gây thiệt hại lớn về người và tài sản. Thời gian tới dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế trong nước và Thành phố còn gặp nhiều khó khăn, thách thức từ các yếu tố tác động tiêu cực bên ngoài cũng như hạn chế, bất cập nội tại của nền kinh tế cần phải khắc phục. Để thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố năm 2024, nhiệm vụ 3 tháng cuối năm là rất lớn, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi đơn vị cần tiếp tục khẩn trương, tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, đồng thời tập trung thực hiện một số nội dung sau: Một là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân tối đa nguồn vốn đầu tư công, huy động tốt nguồn vốn tư nhân cho đầu tư phát triển. Tập trung đảm bảo chất lượng và tiến độ xây dựng các dự án lớn, công trình trọng điểm có tính đột phá và giá trị lan tỏa cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tạo thêm năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. Quan tâm thực hiện hiệu quả Đề án xây dựng nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp; dự án hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng giao thông, hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các dự án lĩnh vực giáo dục, y tế, tôn tạo di tích lịch sử. Hai là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến. Củng cố, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tập trung rà soát để kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho doanh nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi về tín dụng, giảm thuế, phí đất đai, xúc tiến thương mại. Ba là, tăng cường các biện pháp quản lý tốt thị trường, giá cả những tháng cuối năm; bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hóa; tăng cường kiểm tra, kiểm soát hàng giả, hàng kém chất lượng. Thực hiện các chương trình kết nối tiêu thụ sản phẩm chế biến, nông sản, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử. Tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch, phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch gắn với tiềm năng, lợi thế của Thủ đô. Bốn là, các doanh nghiệp tăng cường gắn kết lưu thông với sản xuất, đẩy mạnh liên kết chuỗi nhằm kết nối cung cầu, mở rộng việc tiêu thụ trên các sàn thương mại điện tử; đảm bảo phân phối sản phẩm hàng hóa gắn với quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm; thúc đẩy mạnh mẽ mô hình chuỗi liên kết phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp và xuất khẩu... Đồng thời, tiếp tục tìm kiếm và tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chủ động áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh. Năm là, tạo cơ chế chính sách, hỗ trợ phục hồi sản xuất nông nghiệp đối với khu vực bị ảnh hưởng do cơn bão số 3; kiểm soát tốt dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm nhằm đảm bảo cung cấp thực phẩm tiêu dùng tăng cao dịp lễ, Tết cuối năm. Tiếp tục thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng diện tích trồng lúa chất lượng cao, cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị kinh tế. Bám sát khung thời vụ, đồng thời theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, chủ động phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ nhằm hạn chế tối đa thiệt hại. Sáu là, thực hiện tốt công tác an sinh, phúc lợi xã hội, lao động, việc làm; quan tâm, chăm sóc chu đáo đối với người có công, đối tượng trợ giúp xã hội, hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng chính sách thường xuyên và đột xuất. Nâng cao vai trò, trách nhiệm, tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ. Thực hiện tốt Chỉ thị của Thành ủy Hà Nội và Nghị quyết của HĐND Thành phố về tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trên địa bàn thành phố Hà Nội./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng Tám và 8 tháng năm 2024
- 06/09/2024 11:09
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 1.1. Nông nghiệp Hoạt động trồng trọt: Trong tháng tập trung vào chăm sóc lúa và cây màu vụ Mùa. Tính đến trung tuần tháng Tám, toàn Thành phố gieo cấy được 71,9 nghìn ha lúa vụ Mùa, bằng 99,3% cùng kỳ năm trước; 3.231 ha ngô, bằng 99,1%; 213 ha khoai lang, bằng 94,7%; 288 ha đậu tương, bằng 99%; 539 ha lạc, bằng 98%; 9.776 ha rau, bằng 98,7%; 278 ha đậu, bằng 86,3%. Hiện nay, trên địa bàn Thành phố, trà lúa mùa sớm đã bắt đầu phân hóa đòng, lúa đại trà đẻ nhánh rộ, cây màu đang giai đoạn phát triển thân lá. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của cơn bão số 2, một số nơi bị úng ngập cục bộ, ảnh hưởng đến cây trồng. Để khôi phục sản xuất sau mưa bão, đồng thời hoàn thành kế hoạch sản xuất vụ Mùa 2024, ngành Nông nghiệp Hà Nội đang phối hợp với các địa phương đôn đốc, hướng dẫn nông dân khẩn trương thực hiện các biện pháp chăm sóc diện tích cây trồng bị ảnh hưởng, các máy bơm nước được huy động tối đa để thoát nước, xử lý các diện tích lúa bị ngập úng, chết, không thể gieo cấy bổ sung. Ngay sau khi nước rút, nông dân có thể chuyển sang trồng rau ăn lá, cây ngắn ngày, đồng thời tăng cường kiểm tra đồng ruộng, theo dõi sát diễn biến tình hình thời tiết, sâu bệnh hại cây trồng để có biện pháp phòng trừ kịp thời, hiệu quả. Hoạt động chăn nuôi: Trong thời gian gần đây, nhiều tỉnh, thành phố xuất hiện dịch tả lợn châu Phi với nguy cơ lây lan diện rộng và diễn biến phức tạp. Trước tình hình đó, các ngành chức năng của thành phố Hà Nội thực hiện giám sát chặt chẽ dịch bệnh tại cơ sở chăn nuôi trên địa bàn, tăng cường kiểm tra, áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp vệ sinh phòng bệnh, sát trùng, tiêu độc, kịp thời phát hiện, khoanh vùng và xử lý nhanh gọn khi có dịch bệnh xảy ra. Tổ chức tiêm phòng vắc xin cho đàn lợn thịt, đồng thời tuyên truyền sâu, rộng đến các hộ chăn nuôi về mức độ nguy hiểm của dịch bệnh và công tác phòng chống dịch. Đến nay, trên địa bàn hiện có: Đàn trâu 29,5 nghìn con, tăng 2,1% so với cùng kỳ; đàn bò 125,3 nghìn con, giảm 2,3%; đàn lợn 1,48 triệu con, tăng 0,8%; đàn gia cầm 42,2 triệu con, tăng 1,7% (đàn gà 28,2 triệu con, tăng 2,1%). Tính chung 8 tháng năm 2024, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 1,4 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 7,1 nghìn tấn, giảm 0,1%; thịt lợn 172,5 nghìn tấn, tăng 3,1%; thịt gia cầm 111,6 nghìn tấn, tăng 3,7% (thịt gà 83,9 nghìn tấn, tăng 4%); trứng gia cầm 1.959 triệu quả, tăng 4,8%. 1.2. Lâm nghiệp và thủy sảnSản xuất lâm nghiệp: Trong tháng tập trung vào công tác chăm sóc, bảo vệ rừng. Tháng Tám sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2.050 m3, giảm 2,4% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi đạt 75 ste, tăng 2,7%. Tính chung 8 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 90 ha, giảm 2,2% so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 454 nghìn cây, tăng 0,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 14,2 nghìn m3, giảm 3,8%; sản lượng củi đạt 518 ste, tăng 3,4%. Sản lượng thủy sản: Tháng Tám ước đạt 11,2 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng cá), tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 11 nghìn tấn, tăng 3,6%; thủy sản khai thác 226 tấn, giảm 0,9%. Tính chung 8 tháng năm 2024, tổng sản lượng thủy sản đạt 81,2 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 80,1 nghìn tấn, tăng 3,5%; thủy sản khai thác 1.102 tấn, giảm 0,9%. 2. Sản xuất công nghiệp Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Tám ước tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 6,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,7% và tăng 7,4%; sản xuất và phân phối điện giảm 4,2% và tăng 1%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải giảm 3% và tăng 8,8%; ngành khai khoáng tăng 2,7% và tăng 10,7%. Ước tính 8 tháng năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 10,8%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 9%; công nghiệp khai khoáng giảm 1,5%. Hoạt động công nghiệp chế biến, chế tạo trong 8 tháng năm 2024 có 20/23 ngành sản xuất có chỉ số IIP tăng so với cùng kỳ, trong đó một số ngành tăng khá như: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 19%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 12,3%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 9,9%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác tăng 9,5%; sản xuất trang phục tăng 7,7%. Bên cạnh đó, 3 ngành sản xuất có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 5,1%; sửa chữa, bảo dưỡng máy móc giảm 4,7%; sản xuất xe có động cơ giảm 1,8%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ước đến cuối tháng 8/2024 tăng 0,6% so với tháng trước và tương đương cùng kỳ năm 2023. Tính chung 8 tháng năm nay, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước giảm 3,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 0,1%; khu vực Nhà nước tăng 1,7%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 1,6% (trong đó sản xuất chế biến thực phẩm giảm 14,4%; dệt giảm 9,6%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 8,6%; sản xuất máy móc, thiết bị giảm 7,6%); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,7%; ngành khai khoáng tăng 22,5%. 3. Thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Tám ước tính đạt 7.325 tỷ đồng, tăng 12,6 % so với thực hiện tháng trước và tăng 48,6% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 2.655 tỷ đồng, tăng 11,4% và tăng 53,4%; vốn NSNN cấp huyện 4.377 tỷ đồng, tăng 14% và tăng 44%; vốn NSNN cấp xã 293 tỷ đồng, tăng 3,2% và tăng 84%. Tính chung 8 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý thực hiện được 38,1 nghìn tỷ đồng, tăng 33,9% so với cùng kỳ năm trước và đạt 46% kế hoạch năm 2024, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 14,6 nghìn tỷ đồng, tăng 24,2% và đạt 40,4%; vốn NSNN cấp huyện 21,8 nghìn tỷ đồng, tăng 39% và đạt 50,3%; vốn NSNN cấp xã 1,7 nghìn tỷ đồng, tăng 64,7% và đạt 50,5%. Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Thuộc nhóm dự án quan trọng quốc gia, đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, dự án đang được các địa phương tích cực triển khai bàn giao mặt bằng để thi công toàn bộ dự án đảm bảo tiến độ đã đề ra. Đến nay, dự án đã giải ngân 10,3% kế hoạch vốn. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 36% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 8,2% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 8,1% kế hoạch vốn. Dự án Xây dựng Bệnh viện Nhi Hà Nội - giai đoạn 1: Với tổng mức đầu tư gần 785 tỷ đồng, dự án được xây dựng trên khu đất có tổng diện tích 67,9 nghìn m2 tại phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông. Quy mô dự án gồm 1 khối nhà cao 6 tầng có 2 đơn nguyên với năng lực thiết kế 200 giường bệnh nội trú. Đến nay dự án đã giải ngân 61,9% kế hoạch vốn. Công trình dự kiến hoàn thành, đưa vào sử dụng cuối năm 2024. Dự án Cung Thiếu nhi Hà Nội: Cung Thiếu nhi Hà Nội là dự án trọng điểm của thành phố Hà Nội giai đoạn 2020 - 2025, được khởi công tháng 3/2021 với tổng mức đầu tư hơn 1,3 nghìn tỷ đồng. Công trình được xây dựng tại Khu công viên và hồ điều hòa CV1 thuộc Khu đô thị mới Cầu Giấy với tổng diện tích 39,6 nghìn m2, trong đó diện tích xây dựng 10,3 nghìn m2. Đến nay dự án đã giải ngân 80,9% kế hoạch vốn. Dự kiến công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng chào mừng 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954 - 10/10/2024). 4. Đăng ký doanh nghiệp và thu hút đầu tư nước ngoài 4.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Tám, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 2.204 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 25% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 35,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5%; 573 doanh nghiệp hoạt động trở lại, giảm 12%; 1.313 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 12%; 407 doanh nghiệp giải thể, tăng 18%. Tính chung 8 tháng năm 2024, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 20,4 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 198,7 nghìn tỷ đồng, giảm 5% về số lượng doanh nghiệp và giảm 7% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 7,1 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 11%; 19,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 21%; có gần 3 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 20%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 4.2. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Tháng Tám, thành phố Hà Nội thu hút 67,9 triệu USD vốn FDI, trong đó: 28 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 22,2 triệu USD; có 18 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 16,6 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần 25 lượt, đạt 29,1 triệu USD. Tính chung 8 tháng năm 2024, toàn Thành phố thu hút 1,4 tỷ USD vốn FDI, tăng 71% so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó: Đăng ký cấp mới 172 dự án với số vốn đạt 1,1 tỷ USD; 120 lượt tăng vốn đầu tư với 155 triệu USD; 154 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 177,7 triệu USD. 5. Hoạt động thương mại, dịch vụ 5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Trong tháng Tám, thành phố Hà Nội triển khai công tác phát triển thương mại, dịch vụ văn minh, hiện đại; kết nối giao thương giữa 5 Thành phố trực thuộc Trung ương với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và một số tỉnh Đông Nam Bộ; kết nối về thương mại điện tử với chủ để “Doanh nghiệp Việt trong kỷ nguyên số”; tiếp tục chỉ đạo công tác bình ổn giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng; tăng cường liên kết vùng, xúc tiến thương mại; tập trung cung cấp hàng hóa, bảo đảm an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của người dân nhất là trong dịp Quốc khánh 2/9/2024. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Tám ước tính đạt 70,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 43,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,4% và tăng 13,7%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 10,6 nghìn tỷ đồng, tăng 2,8% và tăng 9,7%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,4 nghìn tỷ đồng, giảm 4,8% và tăng 23,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 13,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,1% và tăng 12,7%. Tính chung 8 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 544,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 344,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,4% tổng mức và tăng 10,4% (đá quý, kim loại quý tăng 43,4%; lương thực, thực phẩm tăng 12,6%; hàng may mặc tăng 9,7%; ô tô con tăng 7,5%; xăng dầu tăng 7,2%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 6,3%; nhiên liệu khác tăng 6,2%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 5,9%; phương tiện đi lại trừ ô tô con tăng 5,4%; hàng hóa khác tăng 14,1%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 73,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,5% và tăng 11,4% (dịch vụ lưu trú tăng 33,4%; dịch vụ ăn uống tăng 9,2%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 18,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,3% và tăng 43,4%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 108 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,8% và tăng 6%. 5.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Tổng doanh thu hoạt động vận tải, dịch vụ hỗ trợ và bưu chính chuyển phát tháng Tám ước đạt 18,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2024, tổng doanh thu ước đạt 143,9 nghìn tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Vận chuyển hành khách: Tháng Tám, số lượt hành khách vận chuyển ước đạt 37,4 triệu lượt người, tăng 4,1% so với tháng trước và tăng 17,6% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1,1 tỷ lượt người.km, tăng 1,7% và tăng 6,8%; doanh thu ước tính đạt 1,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% và tăng 14,5%. Tính chung 8 tháng năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 279,4 triệu lượt người, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 8,3 tỷ lượt người.km, tăng 14,7%; doanh thu đạt 14,7 nghìn tỷ đồng, tăng 17%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Tám ước tính đạt 136,9 triệu tấn, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 12,8% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 13,2 tỷ tấn.km, tăng 0,7% và tăng 9,1%; doanh thu ước tính đạt 7,7 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% và tăng 11,1%. Tính chung 8 tháng năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,1 tỷ tấn, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 103,6 tỷ tấn.km, tăng 13,1%; doanh thu đạt 60,6 nghìn tỷ đồng, tăng 14,9%. Doanh thu dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng Tám ước tính đạt 7,7 nghìn tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2024, doanh thu đạt 59,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Tám ước tính đạt 1,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 14,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2024, doanh thu đạt 8,7 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023. Để chuẩn bị cho kỳ nghỉ Lễ Quốc khánh 2/9 năm nay (từ ngày 31/8 đến hết ngày 3/9/2024), các đơn vị vận tải đang tích cực tăng cường phương tiện, nhân lực phục vụ nhu cầu đi lại của người dân. Trong đó: Công ty cổ phần bến xe Hà Nội có kế hoạch tăng cường 700 lượt xe cho các ngày cao điểm tại các bến xe: Giáp Bát, Mỹ Đình, Gia Lâm từ chiều 30/8 đến hết ngày 4/9/2024. Tổng công ty Đường sắt Việt Nam cũng lên kế hoạch tăng thêm đôi tàu Thống nhất chạy hàng ngày tuyến Hà Nội - TP Hồ Chí Minh. Các hãng Hàng không sẵn sàng tăng chuyến, dự kiến cao hơn 20% so với ngày thường nhằm phục vụ nhu cầu hành khách trong dịp Quốc khánh. 5.3. Hoạt động du lịch Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội tháng Tám ước đạt 546 nghìn lượt người, tăng 13,8% so với tháng trước và tăng 29,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2024, khách du lịch đến Hà Nội ước đạt 4.052 nghìn lượt người, tăng 33,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế tháng Tám ước đạt 373 nghìn lượt người, tăng 19,7% so với tháng trước và tăng 43,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2024, khách quốc tế ước đạt 2.818 nghìn lượt người, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 331,9 nghìn lượt người, tăng 14,4%; Trung Quốc 325,3 nghìn lượt người, tăng 80,4%; Mỹ 186,1 nghìn lượt người, tăng 27,4%; Nhật Bản 168 nghìn lượt người, tăng 30,9%; Anh 158,2 nghìn lượt người, tăng 48,7%; Pháp 138,7 nghìn lượt người, tăng 64,2%; Đức 94,8 nghìn lượt người, tăng 55,6%; Ma-lai-xi-a 69,4 nghìn lượt người, tăng 14,7%; Xin-ga-po 60,2 nghìn lượt người, tăng 8,2%; Thái Lan 45,3 nghìn lượt người, giảm 26,1%. Khách du lịch nội địa tháng Tám ước đạt 173 nghìn lượt người, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 7,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 8 tháng năm 2024, khách du lịch nội địa đến Hà Nội ước đạt 1.234 nghìn lượt người, tăng 13,7% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình hoạt động của cơ sở lưu trú và các dịch vụ du lịch khác: Trên địa bàn Thành phố hiện có 3.760 cơ sở lưu trú du lịch với 71,2 nghìn phòng, trong đó 606 khách sạn được xếp hạng từ 1 đến 5 sao với 26,6 nghìn phòng, chiếm 37% tổng số phòng và 16% tổng số cơ sở lưu trú du lịch. Trong tháng Tám, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn từ 1 đến 5 sao ước đạt 57,3%, tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 8 tháng năm 2024, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao đạt 60,7% (cùng kỳ 8 tháng năm 2023 tăng 60,3%). Dịch vụ du lịch đạt chuẩn trên địa bàn Hà Nội hiện có 45 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, 43 cơ sở kinh doanh dịch vụ mua sắm, 7 cơ sở kinh doanh vui chơi giải trí và 2 cơ sở kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã được công nhận đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Những ngày cuối tháng Tám, ngành Du lịch Thủ đô đang nỗ lực, xây dựng, đưa ra nhiều chương trình kích cầu du lịch nội địa nhân dịp nghỉ Lễ Quốc khánh 2/9. Trong đó, có gần 20 sự kiện nổi bật được tổ chức trên địa bàn thành phố Hà Nội như: Chương trình "Áo dài kết nối Du lịch với Di sản Hà Nội"; Triển lãm "Nghiên bút còn thơm" tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám; Chương trình biểu diễn nghệ thuật múa rối miễn phí tại Khu di tích Hoàng Thành Thăng Long; Chương trình "Vui tết độc lập" gồm: Tái hiện chợ phiên vùng cao "Sắc màu vùng cao"; giới thiệu, trải nghiệm "Không gian văn hóa, du lịch Bắc Ninh giữa lòng Hà Nội" tổ chức tại Làng Văn hóa - Du lịch các dân tộc Việt Nam; Lễ hội Xứ Sở Thần Tiên tại Công viên Thiên đường Bảo Sơn; Chương trình tinh hoa Bắc Bộ đặc biệt có bắn pháo hoa sẽ được tổ chức vào ngày 2/9 tại Công viên Biển Tuần Châu Hà Nội; sự kiện Wonder Moon Festival - Lễ hội mùa thu tại Ocean City - Điểm du lịch Dương Xá, huyện Gia Lâm… Bên cạnh đó, thành phố Hà Nội cùng Ban quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức hỗ trợ nước uống, sữa, bánh mì phục vụ nhân dân và du khách đến viếng Lăng Bác vào ngày 2/9/2024 tại Khu Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh. 5.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Tám ước tính đạt 1,8 tỷ USD, giảm 1,4% so với tháng trước và tăng 13,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 1,1 tỷ USD, tăng 2,5% và tăng 21,1%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 704 triệu USD, giảm 6,7% và tăng 4,3%. Trong tháng, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 286 triệu USD, tăng 23,4%; hàng dệt may đạt 221 triệu USD, tăng 2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 220 triệu USD, tăng 0,8%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 214 triệu USD, tăng 12,3%; xăng dầu đạt 162 triệu USD, tăng 43,5%; hàng hóa khác đạt 409 triệu USD, tăng 15,6%. Trong tháng Tám, có 3 nhóm hàng chủ yếu kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng nông sản đạt 85 triệu USD, giảm 5,6%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 64 triệu USD, giảm 8,2%; hàng gốm sứ đạt 19 triệu USD, giảm 3,8%. Tính chung 8 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 12,4 tỷ USD, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 7,3 tỷ USD, tăng 17,9%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 5,1 tỷ USD, tăng 6,9%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 1,8 tỷ USD, tăng 17,1%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 1,5 tỷ USD, tăng 10,4%; hàng dệt may đạt 1,5 tỷ USD, tăng 2,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,4 tỷ USD, tăng 18,9%; xăng dầu đạt 1 tỷ USD, tăng 17,3%; hàng nông sản đạt 982 triệu USD, tăng 43,3%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 524 triệu USD, tăng 5%; hàng hóa khác đạt 3 tỷ USD, tăng 11,1%. Có 2/12 nhóm hàng chủ yếu kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Giầy dép và sản phẩm từ da đạt 245 triệu USD, giảm 10,7%; điện thoại và linh kiện đạt 77 triệu USD, giảm 14,4%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Tám ước tính đạt 3,6 tỷ USD, giảm 1,2% so với tháng trước và tăng 11,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 3 tỷ USD, giảm 0,2% và tăng 12,4; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 572 triệu USD, giảm 6,5% và tăng 8,1%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị phụ tùng đạt 640 triệu USD, tăng 35,5%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 234 triệu USD, tăng 10,5%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 206 triệu USD, tăng 35,4%; kim loại đạt 149 triệu USD, tăng 75,5%; vải đạt 81 triệu USD, tăng 13,1%; sản phẩm hóa chất đạt 77 triệu USD, tăng 7,9%; hàng hóa khác đạt 1,3 tỷ USD, tăng 29,3%. Một số nhóm hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 373 triệu USD, giảm 39,3%; sắt thép đạt 157 triệu USD, giảm 7,7%; chất dẻo đạt 112 triệu USD, giảm 0,1%; ngô đạt 61 triệu USD, giảm 7,7%; thức ăn gia súc đạt 53 triệu USD, giảm 7,7%. Tính chung 8 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 26,8 tỷ USD, tăng 14,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 22,4 tỷ USD, tăng 16,5%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đạt 4,4 tỷ USD, tăng 5,3%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn như: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 4,5 tỷ USD, tăng 20,8%; xăng dầu đạt 3,4 tỷ USD, giảm 4,2%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 1,7 tỷ USD, tăng 12,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,5 tỷ USD, tăng 22,5%; sắt thép đạt 1,4 tỷ USD, tăng 25,8%; kim loại khác đạt 987 triệu USD, tăng 56,2%; chất dẻo đạt 843 triệu USD, tăng 7,4%; hàng hóa khác đạt 9,5 tỷ USD, tăng 17,8%. 6. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8/2024 tăng nhẹ 0,07% so với tháng trước, tăng 1,29% so với tháng 12/2023 và tăng 4,44% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 8 tháng năm nay tăng 5,24% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Trong tháng Tám, 8/11 nhóm hàng CPI tăng so với tháng trước: Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,50% (tác động làm tăng CPI chung 0,10%) do đầu năm học mới, nhu cầu thuê nhà của sinh viên các trường đại học nhiều hơn nên giá tiền thuê nhà tăng 0,52%, đồng thời một số vật liệu xây dựng chính dùng để bảo dưỡng nhà ở tăng 1,21%. Nhóm hàng ăn, dịch vụ ăn uống tăng 0,43% (tác động làm tăng CPI chung 0,13%) do giá thực phẩm tăng 0,62%; giá lương thực tăng 0,18%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,04%. Nhóm giáo dục tăng 0,23% (tác động làm tăng CPI chung 0,02%). Các nhóm còn lại CPI tăng nhẹ: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,06%; văn hóa, giải trí, du lịch và một số hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,05%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,04%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,03%. Bên cạnh đó, có 2/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm giao thông giảm 1,96% (tác động làm giảm CPI chung 0,19%) do bình quân trong tháng giá xăng giảm 5,61% so với tháng trước; giá dầu diezen giảm 6,95%. Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình giảm nhẹ 0,04%. Riêng bưu chính viễn thông tương đương tháng trước Bình quân 8 tháng năm 2024, CPI tăng 5,24% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 29,33% (tác động làm CPI bình quân chung 8 tháng năm nay tăng 2,32%) do 3 tháng đầu năm 2024 các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,23% (tác động làm CPI tăng 1,27%) do bình quân 8 tháng năm 2024 sản lượng tiêu thụ điện tăng dẫn đến giá điện bình quân tăng 8,73% so với bình quân cùng kỳ; giá nước tăng 33,11%; giá nhà thuê tăng 8,68%. Thuốc và dịch vụ y tế tăng 4,52% (tác động làm CPI tăng 0,23%); Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,23% (tác động làm CPI tăng 1,0%) do 8 tháng năm nay giá lương thực tăng 11,61% (trong đó giá gạo tăng 15,73%); thực phẩm tăng 2,34%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,53%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,53% (tác động làm CPI tăng 0,05%); giao thông tăng 2,34% (tác động làm CPI tăng 0,23%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,87% (tác động làm CPI tăng 0,11%); văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,93% (tác động làm CPI tăng 0,04%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,14% (tác động làm CPI tăng 0,01%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,85% (tác động làm CPI tăng 0,24%) chủ yếu do giá đồ trang sức tăng 28,62% và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 23,05%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông trong 8 tháng năm 2024 giảm 1,32 (tác động làm CPI giảm 0,04%). Chỉ số giá vàng tháng Tám tăng 1,54% so với tháng trước, tăng 25,04% so với tháng 12/2023 và tăng 36,8% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 8 tháng năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 28,73% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Tám giảm 0,53% so với tháng trước, tăng 3,7% so với tháng 12/2023 và tăng 5,95% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 8 tháng năm 2024, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,75% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. 7. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán 7.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 8 tháng năm 2024 ước thực hiện 343,6 nghìn tỷ đồng, đạt 84,1% dự toán pháp lệnh năm và tăng 18,2% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Thu nội địa 323,9 nghìn tỷ đồng, đạt 85,6% dự toán và tăng 18,7% so cùng kỳ với năm 2023; thu từ dầu thô 2,8 nghìn tỷ đồng, đạt 92,3% và tăng 16,9%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 16,8 nghìn tỷ đồng, đạt 62,2% và tăng 9,5%. Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 8 tháng năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 57,4 nghìn tỷ đồng, đạt 81,4% dự toán năm và tăng 6,1% cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 21,9 nghìn tỷ đồng, đạt 81,9% và tăng 17,9%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 70,1 nghìn tỷ đồng, đạt 89,2% và tăng 26,4%; thuế thu nhập cá nhân 34,4 nghìn tỷ đồng, đạt 83,9% và tăng 24,3%; thu tiền sử dụng đất 17,3 nghìn tỷ đồng, đạt 48% và gấp 3 cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 4,6 nghìn tỷ đồng, đạt 70,4% tăng 9,7%; thu phí và lệ phí 16,3 nghìn tỷ đồng, đạt 83,8% và tăng 26%. Chi ngân sách địa phương 8 tháng năm 2024 ước thực hiện 62,7 nghìn tỷ đồng, đạt 42,8% dự toán năm và tăng 19,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chi đầu tư phát triển 28,5 nghìn tỷ đồng, đạt 35,2% và tăng 28,5%; chi thường xuyên 34,2 nghìn tỷ đồng, đạt 59,7% và tăng 13,4%.7.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Tháng Tám, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục khuyến khích các Tổ chức tín dụng (TCTD) tiết giảm chi phí, thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay cũ và mới còn dư nợ ở mức 6,9 - 9,3%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,6%/năm theo quy định của NHNN. Lãi suất tiền gửi tác động theo đó phổ biến ở mức 0,2 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 1,6 - 5,0%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 3,5 - 5,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 4,7 - 6,0%/năm. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 8/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.801 nghìn tỷ đồng, tăng 1,27% so với cuối tháng trước và tăng 8,73% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó tiền gửi đạt 5.140 nghìn tỷ đồng, tăng 1,39% và tăng 10,07%; phát hành giấy tờ có giá đạt 661 nghìn tỷ đồng, tăng 0,32% và giảm 0,67%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 8/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.103 nghìn tỷ đồng, tăng 1,15% so với cuối tháng trước và tăng 13,44% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 1.790 nghìn tỷ đồng, tăng 1,73% và tăng 18,96%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.313 nghìn tỷ đồng, tăng 0,71% và tăng 9,51%. Tính đến cuối tháng 8/2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,69% trong tổng dư nợ. Các TCTD trên địa bàn chú trọng tăng trưởng tín dụng, đưa ra nhiều chương trình, gói tín dụng ưu đãi, áp dụng các chính sách lãi suất linh hoạt. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 13,9% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,9%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,14%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,32%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,36%; cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%. 7.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết tháng Bảy năm 2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.190 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 314 doanh nghiệp và Upcom có 876 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 5,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 156,8 nghìn tỷ đồng, giảm 0,5% và tăng 5,6%; Upcom đạt 444,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 5,1%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng của tháng Bảy đạt 1.819 nghìn tỷ đồng, giảm 8,2% so với tháng trước và tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 327 nghìn tỷ đồng, giảm 1% và tăng 9,9%; Upcom đạt 1.492 nghìn tỷ đồng, giảm 9,7% và tăng 37,2%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tháng Bảy khối lượng giao dịch đạt 1.369 triệu CP được chuyển nhượng, giảm 13,9% so với tháng trước và giảm 39,6% so với cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 29,2 nghìn tỷ đồng, giảm 9,3% và giảm 19,8%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh đạt 1.245 triệu CP, giảm 15% và giảm 41,5%; giá trị đạt 25,5 nghìn tỷ đồng, giảm 12,8% và giảm 24,1%. Tính chung 7 tháng năm 2024, khối lượng giao dịch đạt 12,3 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 249,8 nghìn tỷ đồng, giảm 4,5% về khối lượng và tăng 27,2% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Bảy, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 246 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 27 mã giao dịch; cá nhân 219 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 7 tháng năm 2024 đạt 1.114 nghìn tài khoản. 8. Một số vấn đề xã hội 8.1. Giải quyết việc làm Trong tháng 8/2024, Thành phố hỗ trợ, giải quyết việc làm cho hơn 18,3 nghìn lao động, trong đó: Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho các đối tượng nghèo, đối tượng chính sách vay với số tiền 266 tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 3,2 nghìn lao động; Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội tổ chức 23 phiên giao dịch việc làm với 695 đơn vị, doanh nghiệp tham gia, kết quả có 1,7 nghìn lao động được tuyển dụng; số lao động được giải quyết việc làm qua hình thức xuất khẩu lao động là 340 người; cung ứng dịch vụ việc làm của các doanh nghiệp và qua các hình thức khác là 13,1 nghìn lao động. Tính chung 8 tháng năm 2024, toàn Thành phố giải quyết việc làm cho 164,1 nghìn lao động, đạt 99,4% kế hoạch năm, tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2023. Cũng trong tháng Tám, Thành phố đã ra quyết định hưởng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cho 7,6 nghìn người với số tiền được hỗ trợ là 229,8 tỷ đồng; 100% trường hợp đề nghị hưởng BHTN được tư vấn giới thiệu việc làm mới, trong đó hỗ trợ học nghề 703 triệu đồng. Tính chung 8 tháng năm 2024, Thành phố đã ra quyết định hưởng BHTN cho 50,4 nghìn người với số tiền được hỗ trợ gần 1,5 nghìn tỷ đồng; hỗ trợ học nghề cho 638 người với số tiền 2,6 tỷ đồng. 8.2. Bảo đảm an sinh xã hội Trong tháng Tám, Thành phố thực hiện tốt việc chăm lo, thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách, cán bộ lão thành cách mạng nhân dịp Kỷ niệm kỷ niệm 79 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9 nhằm tôn vinh, tri ân tưởng nhớ công ơn các anh hùng liệt sĩ, thương binh và người có công với cách mạng đã cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Nhân dịp này, Thành phố Hà Nội tặng gần 2,9 nghìn suất quà tương đương 6,1 tỷ đồng đến các đối tượng chính sách theo quy định bảo đảm kịp thời, công khai, dân chủ. Cũng trong tháng, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 1.247 hồ sơ đề nghị hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân người có công với kinh phí 857 triệu đồng. Tính chung 8 tháng năm 2024, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 7,5 nghìn hồ sơ hưởng chế độ người có công và thân nhân người có công. Tổng kinh phí chi cho công tác ưu đãi người có công là 1.727 tỷ đồng, trong đó thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp gần 79 nghìn người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 1.454 tỷ đồng; chi trả trợ cấp một lần là 140 tỷ đồng; chi quà Lễ, Tết 70 tỷ đồng; chi điều dưỡng người có công 63 tỷ đồng. Đến nay, toàn Thành phố đã xây dựng, ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa được trên 33,7 tỷ đồng, đạt 147,6% kế hoạch năm; tặng 1.734 sổ tiết kiệm “Tình nghĩa” với kinh phí 5,4 tỷ đồng, đạt 139,3%; tu sửa nâng cấp 53 công trình ghi công liệt sĩ với kinh phí 157,3 tỷ đồng, đạt 171%; vận động xã hội hóa cho việc tu sửa nâng cấp 159 nhà ở cho hộ gia đình người có công với cách mạng với kinh phí 6,5 tỷ đồng, đạt 119,5%; các Mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn Thành phố được chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo. Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo cũng được Thành phố quan tâm thực hiện, từ đầu năm đến nay đã có 714 ngôi nhà được khởi công xây dựng, sửa chữa, đạt 98,6% kế hoạch năm, trong đó đã hoàn thành 294 nhà xây mới và 237 nhà sửa chữa, đạt 73,3%. Tính đến cuối tháng Tám, toàn Thành phố có 203,3 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng với tổng kinh phí chi trả 8 tháng năm 2024 là 1.182 tỷ đồng. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.016 đối tượng bảo trợ xã hội là người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,8 triệu đồng/người/tháng (riêng trẻ em dưới 4 tuổi là 2,2 triệu đồng/tháng) và chi khác 350 nghìn đồng/tháng. 8.3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội Năm 2024, theo kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 94,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 45% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 40% lực lượng lao động. Ước tính đến hết 8 tháng năm 2024 theo Báo cáo của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 94,4% dân số với 7.997 nghìn người tham gia, tăng 0,7% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.098 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 44,6% lực lượng trong độ tuổi lao động), tăng 1,9% và tăng 4,9%; hơn 91,1 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,5%), tăng 10,8% và tăng 17,3%. Số người tham gia BHTN là 2.030 nghìn người (chiếm 42,5%), tăng 2,0% và tăng 5,1%. Tính đến cuối tháng 8/2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 43,4 nghìn tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 51,3 nghìn tỷ đồng, tăng 13,3% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng là 29,5 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 16,4 nghìn tỷ đồng). 8.4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề Trong tháng Tám, các trường trên địa bàn thành phố Hà Nội đã hoàn thành xong công tác tuyển sinh các lớp đầu cấp mầm non, lớp 1, lớp 6, lớp 10 năm học 2024-2025, đây là năm thứ 9 thành phố Hà Nội triển khai tuyển sinh đầu cấp theo hình thức trực tuyến, cũng là năm ghi nhận số hồ sơ đăng ký trực tuyến có tỷ lệ cao nhất. Đến nay 100% các Trường đã xếp lớp, phân công giáo viên giảng dạy, đồng thời chuẩn bị chu đáo cơ sở vật chất sẵn sàng chào đón năm học mới. Toàn Thành phố tổ chức khai giảng vào ngày 05/9/2024, thành phố Hà Nội thực hiện đúng theo khung kế hoạch thời gian năm học 2024-2025 đối với giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục thường xuyên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành, học sinh các cấp học tựu trường sớm nhất trước 01 tuần so với ngày tổ chức khai giảng, riêng học sinh lớp 1 tựu trường sớm nhất trước 02 tuần so với ngày tổ chức khai giảng. Theo kế hoạch, năm học 2024-2025 thành phố Hà Nội có 2.913 trường mầm non, phổ thông các cấp (tăng 39 trường so với năm học trước), 01 trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục và 29 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên với 70,2 nghìn lớp học; năm học này có 2.238 nghìn học sinh (tăng khoảng 48 nghìn học sinh so với năm học trước) và 130 nghìn giáo viên. Tính đến cuối tháng Tám, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 64,5%, trong đó mầm non 55,4%; tiểu học 72,8%; trung học cơ sở 81%; trung học phổ thông 37,1%. Về giáo dục nghề nghiệp, hiện nay trên địa bàn Thành phố có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở đăng ký hoạt động giáo dục nghề, trong đó: 67 trường cao đẳng, 58 trường trung cấp, 75 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, dạy nghề và 113 doanh nghiệp, loại hình khác Tính chung 8 tháng năm 2024, các cơ sở có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Thành phố đã tuyển sinh được 180,2 nghìn lượt người (trong đó 23,2 nghìn người trình độ cao đẳng; 20,2 nghìn người trình độ trung cấp; 136,8 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng), đạt 76,7% kế hoạch tuyển sinh năm 2024.8.5. Tình hình dịch bệnh Theo số liệu của Sở Y tế Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 15/7 đến ngày 14/8/2024 tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue có xu hướng tăng, trong tháng ghi nhận 683 ca mắc, tăng 438 ca so với tháng trước; cộng dồn từ đầu năm 2024 đến nay Thành phố ghi nhận 1.858 ca mắc (cùng kỳ năm 2023 có 3.512 ca mắc). Bệnh Tay chân miệng ghi nhận 138 ca mắc, tăng 41 ca; cộng dồn từ đầu năm có 1.796 ca mắc (cùng kỳ 1.124 ca mắc). Số ca mắc Covid-19 ghi nhận 273 người, cộng dồn 1.122 ca mắc (cùng kỳ 19,5 nghìn ca). Ho gà 43 ca mắc, cộng dồn 216 ca mắc (cùng kỳ không có ca mắc). Bệnh thủy đậu 41 ca mắc; cộng dồn 725 ca mắc (cùng kỳ 1.876 ca mắc). Liên cầu lợn 4 ca mắc, 1 ca tử vong; cộng dồn 7 ca mắc, 1 tử vong (cùng kỳ 14 ca mắc, 1 tử vong). Uốn ván 1 ca mắc, cộng dồn 12 ca mắc (cùng kỳ 15 ca mắc, 2 tử vong). Các bệnh truyền nhiễm khác xuất hiện rải rác không đáng kể, Hà Nội chưa ghi nhận ca mắc đậu mùa khỉ, bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Hiện nay thời tiết mưa ẩm, dự báo trong thời gian tới các bệnh truyền nhiễm dễ lây lan như Covid-19, cúm, thủy đậu, ho gà, sởi, rubella, adeno vi rút, Tay chân miệng, sốt xuất huyết... có thể gia tăng. Vì vậy các địa phương cần làm tốt công tác tổng vệ sinh môi trường, diệt bọ gậy phòng, chống các ổ dịch mới để kiểm soát tốt nguy cơ bùng phát dịch và giảm thiểu số ca mắc. Cũng trong tháng Tám, Hà Nội tiếp tục đẩy mạnh công tác quản lý an toàn thực phẩm, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, chủ động phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm, khống chế không để ngộ độc thực phẩm nhất là những nơi đông người gây tử vong góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định an toàn xã hội và nâng cao đời sống người dân. 8.6. Hoạt động văn hóa, thể thao Chào mừng kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2024) và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2/9/1945 - 2/9/2024), ngay từ đầu tháng Tám, tại khu vực nội thành, trung tâm Thành phố và các trục đường chính công tác tuyên truyền, cổ động trực quan được thực hiện bằng nhiều hình thức đa dạng, phong phú theo nội dung, mẫu tranh cổ động đã được phê duyệt. Trong đó, tập trung trang trí tại các khu vực trung tâm, các tuyến đường chính, trụ sở các công sở, cơ quan, doanh nghiệp, trường học, các điểm văn hoá công cộng, nơi đông người qua lại. Đài truyền thanh cơ sở tăng cường tin bài, thời lượng phát thanh tuyên truyền trước, trong và sau ngày Kỷ niệm tạo không khí vui tươi, phấn khởi trong các tầng lớp nhân dân. Hoạt động văn hóa: Trong tháng Tám theo báo cáo của Sở Văn hóa và Thể Thao Hà Nội, tại các di tích lịch sử trên địa bàn Thành phố đã tổ chức tiếp đón các cơ quan, đoàn thể và Nhân dân đến dâng hương, tham quan du lịch tất cả các ngày trong tuần với 117,5 nghìn lượt khách, đạt 6,5 tỷ đồng doanh thu phí. Tính chung 8 tháng năm 2024, các di tích đã đón gần 2,2 triệu lượt khách tham quan, doanh thu phí tham quan 120 tỷ đồng, vượt 65% dự toán giao cả năm. Cũng trong tháng, các đơn vị nghệ thuật tổ chức biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đối ngoại và phục vụ đông đảo các tầng lớp Nhân dân với 202 buổi diễn (40 buổi phục vụ chính trị và 162 buổi diễn doanh thu) đạt 5,4 tỷ đồng. Cộng dồn 8 tháng năm 2024, các đơn vị nghệ thuật của Thành phố đã tổ chức 1.529 buổi biểu diễn (235 buổi diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đối ngoại; 1.294 buổi diễn doanh thu), đạt 59% kế hoạch năm; thu hút 553,4 nghìn lượt khán giả, hoàn thành 74,3% kế hoạch; doanh thu 37,2 tỷ đồng, đạt 76,9%. Hoạt động thể thao: Trong tháng Tám, Thành phố đã cử các đoàn huấn luyện viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế, đồng thời phối hợp tổ chức các giải thi đấu chuyên nghiệp theo kế hoạch. Thể thao thành tích cao trong tháng đạt 428 huy chương trong nước (173 huy chương Vàng, 120 huy chương Bạc, 135 huy chương Đồng) nâng tổng số huy chương của thành phố Hà Nội 8 tháng năm 2024 đạt 1.987 huy chương các loại, trong đó: 80 huy chương tại các giải đấu quốc tế (14 huy chương Vàng, 32 huy chương Bạc, 34 huy chương Đồng) và 1.907 huy chương trong nước (727 huy chương Vàng, 568 huy chương Bạc, 612 huy chương Đồng). 8.7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Tám (từ 15/7/2024 đến 14/8/2024) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng phát hiện hơn 677 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 323 vụ do công an khám phá; số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 673 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 236 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 278 đối tượng, thu nộp ngân sách 8,1 tỷ đồng. Cộng dồn 8 tháng năm 2024, phát hiện 4.899 vụ phạm pháp hình sự, bắt giữ theo luật 4.803 đối tượng; 2.462 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế, bắt giữ 2.850 đối tượng; thu nộp ngân sách 599,2 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 4 vụ cờ bạc, bắt giữ 6 đối tượng. Tổng số vụ vi phạm pháp luật về ma tuý bị phát hiện là 273 vụ, bắt giữ 422 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 229 vụ với 353 đối tượng. Cộng dồn 8 tháng năm nay, trên địa bàn Thành phố đã phát hiện 376 vụ cờ bạc, bắt giữ 1.883 lượt đối tượng; số vụ vi phạm pháp luật về ma tuý bị phát hiện là 2.521 vụ, bắt giữ 3.865 lượt đối tượng. Tai nạn giao thông: Tháng Tám, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 124 vụ tai nạn giao thông làm 58 người chết và bị thương 99 người. Trong đó, 122 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 57 người chết, 98 người bị thương và 2 vụ tai nạn đường sắt làm 1 người chết và 1 người bị thương. Chia theo mức độ nghiêm trọng, có 1 vụ tai nạn đặc biệt nghiêm trọng làm chết 4 người và bị thương 1 người; có 59 vụ tai nạn nghiêm trọng làm chết 54 người và bị thương 22 người; số vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm là 66 vụ làm 76 người bị thương. Cộng dồn 8 tháng năm 2024, xảy ra 1.025 vụ tai nạn giao thông, trong đó 1.008 vụ tai nạn đường bộ và 17 vụ tai nạn đường sắt, làm 439 người chết và 859 người bị thương. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng, phát hiện 793 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 795 đối tượng; xử lý 786 vụ với 788 đối tượng; thu nộp ngân sách 2,5 tỷ đồng. Cũng trong tháng Tám, trên địa bàn Thành phố xảy ra 113 vụ cháy làm 1 người chết, trong đó có 1 vụ cháy nghiêm trọng làm 1 người chết; 10 vụ cháy trung bình và 101 vụ cháy nhỏ. Cộng dồn 8 tháng năm 2024, ghi nhận 6.102 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 6.138 đối tượng; 793 vụ cháy làm 25 người chết và 8 người bị thương./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng Sáu và 6 tháng đầu năm 2024
- 28/06/2024 17:12
Kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội 6 tháng đầu năm 2024 diễn ra trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang dần ổn định, các tổ chức quốc tế đều nhận định lạc quan hơn về tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2024 so với các dự báo đưa ra trước đó. Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn nhiều rủi ro tiềm ẩn về chính trị, chính sách, công nghệ và biến đổi khí hậu. Xu hướng phân mảnh địa kinh tế ngày càng rõ nét. Chuỗi cung ứng toàn cầu đối mặt với nhiều thách thức. Lạm phát tiếp tục giảm nhưng chậm hơn so với dự báo và vẫn tồn tại các áp lực gia tăng trở lại. Tăng trưởng năng suất lao động chậm kìm hãm sự phục hồi kinh tế toàn cầu. Ở trong nước, kinh tế được cải thiện dần nhưng tốc độ chậm, đà tăng trưởng của các khu vực không đồng đều, nhất là khu vực tiêu dùng trong nước vẫn chưa hoàn toàn phục hồi. Đối với Thủ đô Hà Nội, ngay từ đầu năm, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố đã tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành và địa phương thực hiện hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Nhờ đó, kinh tế - xã hội Thành phố tiếp tục duy trì đà tăng trưởng, an sinh xã hội được đảm bảo, kết quả chủ yếu các ngành, lĩnh vực trong quý II và 6 tháng đầu năm 2024 như sau: I. TÌNH HÌNH KINH TẾ 1. Tăng trưởng kinh tế Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý II ước tính tăng 6,44% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực dịch vụ tăng 7,15%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,57%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,90%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,65%. Khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá (7,15%), đóng góp 4,75 điểm % vào mức tăng GRDP quý II, trong đó một số ngành, lĩnh vực tăng cao, đóng góp nhiều vào tăng trưởng chung của Thành phố: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (bao gồm lĩnh vực du lịch, lữ hành) tăng 20,93%, đóng góp 0,72 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 9,79%, đóng góp 0,98 điểm %; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 6,68%, đóng góp 0,12 điểm %; hoạt động chuyên môn khoa học, công nghệ tăng 6,51%, đóng góp 0,43 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 6,35%, đóng góp 0,24 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 6,14%, đóng góp 0,58 điểm %; vận tải, kho bãi tăng 5,84%, đóng góp 0,50 điểm %; thông tin, truyền thông tăng 5,63%, đóng góp 0,81 điểm %. Các ngành dịch vụ khác tiếp tục duy trì tăng trưởng so với cùng kỳ: Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị- xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng tăng 4,9%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,48%; hoạt động nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 3,25%; dịch vụ khác tăng 1,58%.Khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính quý II tăng 5,57% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,16 điểm % vào mức tăng GRDP của Thành phố. Trong đó: Ngành công nghiệp tăng 5,53%, đóng góp 0,71 điểm % (ngành chế biến, chế tạo tăng 4,76%; sản xuất phân phối điện tăng 14,81%; hoạt động cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 7,68%); ngành xây dựng tăng 5,64%, đóng góp 0,45 điểm % vào mức tăng chung.Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản quý II ước tăng 1,90% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,04 điểm % vào mức tăng GRDP. Trong quý II, lúa và cây màu sinh trưởng, phát triển tốt; tổng đàn vật nuôi tăng khá, chăn nuôi gia súc, gia cầm ổn định, không xảy ra dịch bệnh lớn, giá thịt lợn hơi có xu hướng tăng nhẹ đã tác động tích cực đến hoạt động tái đàn tại các hộ chăn nuôi. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm quý II ước tính tăng 4,65%, chiếm 0,49 điểm % tăng trưởng GRDP của Thành phố.Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, GRDP của Thành phố ước tính tăng 6,0% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 5,53%; quý II tăng 6,44%). Tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm nay tăng nhẹ so với mức tăng 5,86% của cùng kỳ năm trước nhưng trong bối cảnh kinh tế thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, xuất khẩu gặp khó khăn, sức mua thị trường nội địa chững lại, mức tăng trưởng quý II cao hơn 0,91 điểm % so với quý I là rất quan trọng và đáng ghi nhận. Khu vực dịch vụ 6 tháng đầu năm ước tính tăng 6,55% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 5,91%; quý II tăng 7,15%), đóng góp 4,41 điểm % vào mức tăng GRDP, trong đó một số ngành tăng trưởng khá, đóng góp nhiều vào mức tăng trưởng GRDP 6 tháng như: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 18,86%, đóng góp 0,7 điểm % vào mức tăng chung; bán buôn, bán lẻ tăng 8,91%, đóng góp 0,91 điểm %; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 7,78%, đóng góp 0,13 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 6,31%, đóng góp 0,6 điểm %; hoạt động chuyên môn khoa học, công nghệ tăng 6,29%, đóng góp 0,4 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 6,23%, đóng góp 0,24 điểm %; vận tải, kho bãi tăng 5,2%, đóng góp 0,44 điểm %; thông tin, truyền thông tăng 4,77%, đóng góp 0,72 điểm %. Các ngành dịch vụ khác tiếp tục duy trì tăng trưởng so với cùng kỳ: Hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị- xã hội, quản lý nhà nước, an ninh quốc phòng tăng 4,55%; hoạt động nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 3,81%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,26%; kinh doanh bất động sản tăng 2,82%; dịch vụ khác tăng 0,67%.Khu vực công nghiệp và xây dựng 6 tháng đầu năm 2024 ước tính tăng 5,37% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 5,12%; quý II tăng 5,57%), đóng góp 1,04 điểm % vào mức tăng GRDP. Ngành công nghiệp những tháng đầu năm gặp khó khăn do nhiều ngành sản phẩm chủ lực sụt giảm, ước 6 tháng giá trị tăng thêm đạt 5,33%, đóng góp 0,66 điểm %, trong đó công nghiệp chế biến chế tạo tăng 4,53%, đóng góp 0,5 điểm %; sản xuất phân phối điện tăng 15,45%, đóng góp 0,11 điểm %; hoạt động cung cấp nước và xử lý, nước thải tăng 8,63%, đóng góp 0,05 điểm %. Ngành xây dựng 6 tháng đầu năm ước tăng 5,45%, đóng góp 0,38 điểm % vào mức tăng chung.Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 6 tháng đầu năm ước tính tăng 2,94% so với cùng kỳ năm 2023 (quý I tăng 4,19%; quý II tăng 1,90%), đóng góp 0,07 điểm % vào mức tăng GRDP. Những tháng đầu năm, trên địa bàn Thành phố không xuất hiện dịch bệnh lớn, hoạt động tái đàn được quan tâm, đàn lợn hiện có tăng 0,8% so với cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm tăng 1,4%; đàn trâu tăng 2,1%. Bên cạnh đó, Thành phố tiếp tục cơ cấu lại ngành trồng trọt theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, gieo cấy lúa chất lượng cao; mở rộng diện tích trồng rau, hoa, cây cảnh; tăng các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình GAP, VietGAP, rau hữu cơ. Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6 tháng đầu năm 2024 ước tăng 4,38% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 0,48 điểm % mức tăng GRDP chung.Cơ cấu GRDP 6 tháng đầu năm 2024 theo giá hiện hành: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 2,18%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 20,3%; khu vực dịch vụ chiếm 66,91%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,61% (cơ cấu GRDP 6 tháng đầu năm 2023 tương ứng là: 2,20%; 20,79%; 66,21% và 10,80%).Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản ổn định; công tác chống hạn cho cây trồng vụ Xuân được triển khai sớm; năng suất lúa vụ Xuân tăng so với cùng kỳ. Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển, dịch bệnh được kiểm soát, giá thịt lợn hơi có xu hướng tăng trong quý II góp phần giảm bớt áp lực về chi phí, tạo động lực các hộ chăn nuôi mở rộng đàn. Hoạt động trồng rừng, bảo vệ và phòng chống cháy rừng được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện.2.1. Nông nghiệpLúa vụ Xuân: Diện tích gieo cấy lúa vụ Xuân năm nay đạt 81 nghìn ha, bằng 98,1% cùng kỳ năm trước. Đến trung tuần tháng Sáu, toàn Thành phố đã thu hoạch được 73,8 nghìn ha, đạt 91% diện tích gieo trồng. Theo đánh giá sơ bộ, năng suất lúa vụ Xuân năm nay ước đạt 63 tạ/ha, tương đương tăng 0,3% so với vụ Xuân năm trước; sản lượng lúa đạt 510 nghìn tấn, bằng 98,5%. Cây màu vụ Đông Xuân: Tính đến giữa tháng Sáu, Thành phố gieo trồng được 8,9 nghìn ha ngô, bằng 99,6% cùng kỳ năm trước với sản lượng ước đạt 46,5 nghìn tấn, bằng 98%; khoai lang 1,1 nghìn ha, tăng 0,7% (sản lượng 10,7 nghìn tấn, tăng 6,9%); đậu tương 931 ha, bằng 99,5% (sản lượng 1,7 nghìn tấn, tăng 3,9%); lạc 1,5 nghìn ha, bằng 92,4% (sản lượng 3,5 nghìn tấn, tăng 89,2%); rau 24,2 nghìn ha, bằng 98% (sản lượng 543,7 nghìn tấn, bằng 98,1%); đậu 294 ha, tăng19% (sản lượng 494 tấn, tăng 28,3%).Cây lâu năm: Tổng Diện tích cây lâu năm hiện có ước đạt 24,1 nghìn ha, tăng 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó chủ yếu là cây ăn quả 20,3 nghìn ha, tăng 1%; cây lấy quả chứa dầu 22 ha, bằng 90,9%; cây chè 2 nghìn ha, bằng 98,7%; cây gia vị, dược liệu 251 ha, tăng 11,5%; cây lâu năm khác 1,5 nghìn ha, tăng 4%. Ước tính sản lượng một số cây lâu năm 6 tháng đầu năm 2024: Xoài đạt 2 nghìn tấn, bằng 50%; chuối 42,5 nghìn tấn, tăng 0,5%; dứa 2,4 nghìn tấn, tăng 1%; ổi 8,9 nghìn tấn, tăng 5,5%; táo 9,7 nghìn tấn, tăng 4,6%; vải 860 tấn, bằng 50%; chè búp 8,7 nghìn tấn, bằng 99%.Chăn nuôi: Hoạt động chăn nuôi cơ bản thuận lợi, không xảy ra dịch bệnh lớn trên đàn gia súc, gia cầm. Tổng đàn vật nuôi tăng khá, các cơ sở chăn nuôi bám sát diễn biến thị trường, có kế hoạch tái đàn phù hợp, đáp ứng nhu cầu thực phẩm của người dân Thủ đô. Đến nay, đàn lợn có 1,47 triệu con, tăng 0,8% so với cùng kỳ năm 2023; đàn trâu 29,4 nghìn con, tăng 2,1%; đàn bò 126 nghìn con, giảm 1,9%; đàn gia cầm 41,5 triệu con, tăng 1,4% (đàn gà 27,5 triệu con, tăng 1,2%). Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 128,6 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2023; thịt trâu 1,1 nghìn tấn, tăng 2,1%; thịt bò 5,4 nghìn tấn, giảm 0,1%; thịt gia cầm 83,3 nghìn tấn, tăng 3,5% (thịt gà 62,7 nghìn tấn, tăng 4,1%); trứng gia cầm 1.455 triệu quả, tăng 4,1%.2.2. Lâm nghiệp và thủy sảnLâm nghiệp: Trong tháng Sáu, sản lượng gỗ khai thác ước 1,8 nghìn m3, bằng 96,2% cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi 65 ste, tăng 3,2%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung ước đạt 90 ha, bằng 97,8% cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán 454 nghìn cây, tăng 0,9%; sản lượng gỗ khai thác 10,3 nghìn m3, bằng 96%; sản lượng củi khai thác 372 ste, tăng 3,6%. Trong 6 tháng đầu năm nay, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 2 vụ cháy rừng với diện tích bị cháy 2 ha, chủ yếu cháy thảm thực bì dưới tán cây, không gây thiệt hại đến tài nguyên rừng.Thủy sản: Thời gian qua một số hộ dân tích cực chuyển đổi diện tích đất trồng cây hàng năm không hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản; các vùng nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển theo hướng bền vững, an toàn và ứng dụng kỹ thuật cao vào sản xuất, đưa giống cá (trắm, chép lai, rô phi đơn tính, …) có năng suất, chất lượng vào nuôi trồng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Đến nay diện tích nuôi trồng thủy sản trên địa bàn ước đạt 22,6 nghìn ha (chủ yếu là diện tích nuôi cá), tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Sản lượng thủy sản trong tháng Sáu ước đạt 10,9 nghìn tấn (chủ yếu là sản lượng cá), tăng 3,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 10,8 nghìn tấn, tăng 3,6%; thủy sản khai thác 161 tấn, giảm 1,2%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 58,8 nghìn tấn, tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 58,2 nghìn tấn, tăng 3,5%; thủy sản khai thác 664 tấn, giảm 1%.3. Sản xuất công nghiệp Bước sang quý II/2024, hoạt động sản xuất công nghiệp có nhiều tín hiệu tích cực khi các đơn hàng tiếp tục tăng. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5%, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,1%; chỉ số tiêu thụ tăng 13,1%; chỉ số tồn kho cuối tháng Sáu giảm 30,1%. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Sáu ước tính tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 6,1% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,5% và tăng 5,9%; sản xuất và phân phối điện tăng 15,2% và tăng 6,2%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 2,3% và tăng 10,5%; ngành khai khoáng tương đương tháng trước và tăng 7,1%.Ước tính quý II/2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,1%; sản xuất, phân phối điện và cung cấp nước, xử lý rác, nước thải tăng 10,7%; khai khoáng tăng 2,3%. Một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP quý II tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 27,5%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 14,5%; In, sao chụp bản ghi tăng 12,6%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 12,2%; sản xuất trang phục tăng 11,8%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Sản xuất xe có động cơ giảm 5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 4,5%; sản xuất đồ uống giảm 0,8%; sản xuất hóa chất và sản phẩm từ hóa chất giảm 0,7%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,1%; sản xuất và phân phối điện tăng 13%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 9,7%; khai khoáng giảm 3,6%. Trong 6 tháng đầu năm nay, một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 14,6%; sản xuất máy móc thiết bị tăng 13,8%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 9,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 9%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,8%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Sản xuất xe có động cơ và chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 5,1%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc giảm 3,7%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 1,7%; sản xuất đồ uống giảm 0,6%.Chỉ số tiêu thụ sản phẩm toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Sáu tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 13,1% so với cùng kỳ, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tiêu thụ tăng như: Sản xuất thuốc, hóa được và dược liệu tăng 36,2%; sản xuất dệt tăng 31,6%; in, sao chép bản ghi tăng 30,6%; sản xuất xe có động cơ tăng 13,7%; sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 10,4%... Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm như: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 39,2%; sản xuất da và sản phẩm liên quan giảm 22,3%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 6,1%; sản xuất kim loại giảm 5%.Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính thời điểm 30/6/2024 giảm 30,1% so với cuối quý II/2023, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm mạnh so với cùng kỳ: Sản phẩm điện tử, máy vi tính giảm 93,8%; sản xuất máy móc, thiết bị giảm 70,2%; dệt giảm 61,6%; phương tiện vận tải giảm 50,6%; sản phẩm thuốc, hóa dược và dược liệu giảm 40,7%. Một số ngành công nghiệp có chỉ số tồn kho tăng: Sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 47,4%; trang phục tăng 26,5%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ tăng 19,3%; sản xuất kim loại tăng 15,6%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 13,9%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ước đến cuối tháng 6/2024 tăng 0,3% so với cuối tháng trước và tương đương cùng thời điểm năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,2%; khu vực ngoài Nhà nước giảm 2,8%; khu vực Nhà nước tăng 1,2%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 1,9% so với cùng kỳ năm 2023; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,8%; ngành khai khoáng tăng 18,9%. 4. Đầu tư và xây dựng 4.1. Đầu tư phát triển Trong quý II/2024, Thành phố tiếp tục tập trung chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị thi công tăng cường nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án trọng điểm. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn 6 tháng đầu năm ước tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước; thu hút đầu tư nước ngoài đạt gần 1,2 tỷ USD. Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố quý II/2024 ước tính đạt 122 nghìn tỷ đồng, tăng 40,6% so với quý trước và tăng 10,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn Nhà nước đạt 44,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 36,4% tổng vốn đầu tư, tăng 40,5% và tăng 16%; vốn ngoài nhà nước đạt 69,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 57,1%, tăng 43,2% và tăng 7,1%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 7,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,5%, tăng 22,2% và tăng 6%. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý II ước tính đạt 78,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 64,5% tổng vốn đầu tư, tăng 49,5% so với quý trước và tăng 14,5% so với cùng kỳ năm 2023; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 31,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,7%, tăng 25,8% và tăng 3%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 5,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,6%, tăng 36,9% và tăng 5,7%; bổ sung vốn lưu động đạt 4,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 4%, tăng 23,7% và tương đương cùng kỳ; vốn đầu tư khác đạt 1,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,2%, tăng 28,4% và tương đương cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố đạt 208,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn Nhà nước đạt 76 nghìn tỷ đồng, tăng 13,7%; vốn ngoài nhà nước đạt 118,4 nghìn tỷ đồng, tăng 7,5%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 14,4 nghìn tỷ đồng, tăng 5,3%. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Sáu ước tính đạt 5.276 tỷ đồng, tăng 13,7% so với thực hiện tháng trước và tăng 27,5% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính quý II năm nay vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 14 nghìn tỷ đồng, tăng 40,5% so với thực hiện quý trước, tăng 26,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: NSNN cấp Thành phố thực hiện 5,5 nghìn tỷ đồng, tăng 38,4% và tăng 19,4%; NSNN cấp huyện thực hiện 7,7 nghìn tỷ đồng, tăng 39,6% và tăng 28%; NSNN cấp xã thực hiện 728 tỷ đồng, tăng 72,5% và tăng 76%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 23,9 nghìn tỷ đồng, tăng 25,3% so với cùng kỳ năm trước và đạt 30,7% kế hoạch năm, trong đó: NSNN cấp Thành phố thực hiện 9,5 nghìn tỷ đồng, tăng 15,1% và đạt 26,4%; NSNN cấp huyện thực hiện 13,2 nghìn tỷ đồng, tăng 31,1% và đạt 34,4%; NSNN cấp xã thực hiện 1,2 tỷ đồng, tăng 62,6% và đạt 35,2%. Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Trong tháng, thành phố Hà Nội thu hút 43,8 triệu USD vốn FDI, trong đó: 28 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 11,5 triệu USD; có 14 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 18,4 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua phần cổ phần 14 lượt, đạt 13,9 triệu USD. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, toàn Thành phố thu hút 1.165 triệu USD vốn FDI, trong đó: Đăng ký cấp mới 120 dự án với số vốn đạt 1.036 triệu USD; 78 dự án bổ sung tăng vốn đầu tư với 55 triệu USD; 104 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 74 triệu USD. 4.2. Hoạt động xây dựng Hoạt động xây dựng trong 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục được quan tâm chú trọng. Cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, Thành phố đã chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu, các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm, phát triển hạ tầng, góp phần đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công. Năm 2024 thành phố Hà Nội có 226 dự án đầu tư công xây dựng cơ bản tập trung, trong đó: 155 dự án chuyển tiếp với mức đầu tư 205,5 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn năm 2024 là 24,4 nghìn tỷ đồng); có 71 dự án mới được khởi công xây dựng trong năm với tổng mức đầu tư 7,2 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn trong năm là 1,1 nghìn tỷ đồng). Lĩnh vực giao thông với 58 dự án, chiếm 19,5% kế hoạch vốn. Đến nay các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn Thành phố đang khẩn trương thi công, sớm hoàn thành các hạng mục theo kế hoạch đặt ra. Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, dự án đang được các địa phương tích cực triển khai bàn giao mặt bằng để thi công toàn bộ dự án đảm bảo tiến độ đã đề ra. Đến thời điểm này, tổng vốn đã đầu tư cho dự án khoảng 12,6 nghìn tỷ đồng, tiến độ thi công xây lắp đạt 9,6%. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 32,4% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 7,5% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 7,3% kế hoạch vốn. Dự án Xây dựng Bệnh viện Nhi Hà Nội - giai đoạn 1: Với tổng mức đầu tư gần 785 tỷ đồng, dự án được xây dựng trên khu đất có tổng diện tích 67,9 nghìn m2 tại phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông. Quy mô dự án gồm 1 khối nhà cao 6 tầng có 2 đơn nguyên với năng lực thiết kế 200 giường bệnh nội trú. Đến nay dự án đã giải ngân 53,6% kế hoạch vốn. Công trình dự kiến hoàn thành, đưa vào sử dụng cuối năm 2024. Dự án Cung Thiếu nhi Hà Nội: Dự án được khởi công tháng 3/2021 với tổng mức đầu tư hơn 1,3 nghìn tỷ đồng. Công trình được xây dựng tại Khu công viên và hồ điều hòa CV1 thuộc Khu đô thị mới Cầu Giấy với tổng diện tích 39,6 nghìn m2, trong đó diện tích xây dựng 10,3 nghìn m2. Đến nay dự án đã giải ngân 75,8% kế hoạch vốn. Dự kiến công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng trong quý III năm 2024. 5. Hoạt động của doanh nghiệp Trong 6 tháng đầu năm 2024, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 3% và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Có 77,4% doanh nghiệp ngành chế biến, chế tạo đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh trong quý II ở mức ổn định và tốt hơn so với quý I; 82,2% doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và tốt hơn trong quý III/2024. 5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Sáu, thành phố Hà Nội có 2.584 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 6% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 24,9 nghìn tỷ đồng, giảm 3%; 564 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 6%; thực hiện thủ tục giải thể cho 350 doanh nghiệp, tăng 13%; 782 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, giảm 19%. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2024, Hà Nội có 15,5 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, giảm 3% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 149,2 nghìn tỷ đồng, giảm 3%; hơn 6 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 17%; thực hiện thủ tục giải thể cho gần 2,1 nghìn doanh nghiệp, tăng 14%; gần 17 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 26%;. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II/2024 cho thấy: Có 28,7% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý II/2024 tốt hơn quý I/2024; 48,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản suất kinh doanh ổn định và 22,6% số doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Nếu những tháng tiếp theo thị trường xuất khẩu được cải thiện, số lượng đơn đặt hàng tăng lên, xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2024 là: 32,3% số doanh nghiệp dự kiến quý III/2024 sẽ tốt lên so với quý II/2024; 49,9% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 17,8% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó: 80,7% số doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2024 sẽ tốt hơn và giữ ổn định so với quý II/2024; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI lần lượt là 90% và 86,4%. 6. Thương mại, dịch vụ và du lịch 6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Quý II/2024, khu vực dịch vụ tiếp tục là điểm sáng, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng chung của Thành phố. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý II tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 6 tháng đầu năm tăng 10,7%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Sáu ước tính đạt 71,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 44,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,8% và tăng 13,6%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 9,2 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% và tăng 6%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, tăng 8,9% và tăng 43,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 14,9 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% và tăng 14,1%. Ước tính quý II/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 208,8 nghìn tỷ đồng, tăng 4,6% so với quý trước và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 2,3% và tăng 12%; khách sạn, nhà hàng tăng 7,2% và tăng 8,8%; du lịch lữ hành tăng 13,3% và tăng 48,2%; dịch vụ khác tăng 9% và tăng 10,7%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 408,4 nghìn tỷ đồng, tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 260,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,9% tổng mức và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước (đá quý, kim loại quý tăng 32,6%; lương thực, thực phẩm tăng 14,2%; hàng may mặc tăng 10,6%; ô tô tăng 8,5%; phương tiện đi lại tăng 7,7%; gỗ, vật liệu xây dựng và đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 7,3%; xăng dầu tăng 6,8%; hàng hóa khác tăng 13,4%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 52,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,8% tổng mức và tăng 11,3% (dịch vụ lưu trú đạt 5,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,4% và tăng 32,7%; nhà hàng đạt 46,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,4% và tăng 9,2%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 13,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,2% và tăng 48%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 82 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,1% và tăng 6,1% (giáo dục và đào tạo tăng 10,3%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 8,6%; kinh doanh bất động sản tăng 8,3%; y tế tăng 7,2%). 6.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Hoạt động vận tải trong quý II tiếp tục duy trì tăng trưởng tích cực cả về vận chuyển hành khách và vận tải hàng hóa. Tổng doanh thu quý II tăng 4,5% so với quý trước và tăng 14% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm, doanh thu vận tải và bưu chính chuyển phát tăng 13,1%. Vận tải hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng Sáu ước đạt 36,1 triệu lượt người, tăng 2,2% so với tháng trước và tăng 13,2% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1.046 triệu lượt người.km, tăng 0,3% và tăng 9,9%; doanh thu ước tính đạt 1,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% và tăng 17,9%. Ước tính quý II/2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 106,1 triệu lượt người, tăng 5,6% so với quý trước và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 3,1 tỷ lượt người.km, tăng 3,9% và tăng 10%; doanh thu đạt 5,5 nghìn tỷ đồng, tăng 3,1% và tăng 17,8%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 206,5 triệu lượt người, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 6,1 tỷ lượt người.km, tăng 17,5%; doanh thu đạt 10,9 nghìn tỷ đồng, tăng 17,6%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Sáu ước tính đạt 135,4 triệu tấn, tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 16,1% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 13 tỷ tấn.km, tăng 0,3% và tăng 11%; doanh thu ước tính đạt 7,7 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% và tăng 13,5%. Ước tính quý II, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 404,5 triệu tấn, tăng 3,2% so với quý trước và tăng 16,2% so với cùng kỳ năm 2023; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 39 tỷ tấn.km, tăng 1,4% và tăng 11,5%; doanh thu đạt 22,9 nghìn tỷ đồng, tăng 2,2% và tăng 14,3%. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 796,4 triệu tấn, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 77,4 tỷ tấn.km, tăng 14,1%; doanh thu đạt 45,2 nghìn tỷ đồng, tăng 15,9%. Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải tháng Sáu ước tính đạt 7,7 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý II đạt 23 nghìn tỷ đồng, tăng 7% so với quý trước và tăng 12,5% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, doanh thu đạt 44,5 nghìn tỷ đồng, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Sáu ước tính đạt 1,1 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với tháng trước và tăng 16,4% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý II đạt 3,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,8% so với quý trước và tăng 15,6% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, doanh thu đạt 6,5 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước. 6.3. Du lịch Ngay từ đầu năm 2024, ngành du lịch Thủ đô đã chú trọng đổi mới công tác tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch, điểm đến, các sản phẩm du lịch mới trên các kênh truyền thông, truyền hình trong nước và quốc tế. Với thông điệp “Hà Nội điểm đến an toàn cho du khách” và “Hà Nội đến để yêu” đã tạo sức lan tỏa lớn, thu hút khách đến tham quan, du lịch Hà Nội. Khách du lịch đến Hà Nội 6 tháng đầu năm nay tăng 36,9% so với cùng kỳ năm trước. Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội quý II/2024 ước đạt 1,5 triệu lượt người, tăng 27,3% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 6 tháng đầu năm, khách du lịch đến Hà Nội ước đạt hơn 3 triệu lượt người, tăng 36,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế tháng Sáu ước tính đạt 305 nghìn lượt người, giảm 4,7% so với tháng trước và tăng 36% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý II/2024 đạt 1.024 nghìn lượt người, giảm 9,1% so với quý trước và tăng 37,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, khách quốc tế đạt 2.150 nghìn lượt người, tăng 48,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 256,3 nghìn lượt người, tăng 20,9%; Trung Quốc 248,5 nghìn lượt người, gấp 2,1 lần cùng kỳ; Mỹ 150,2 nghìn lượt người, tăng 29,9%; Anh 125,1 nghìn lượt người, tăng 53,6%; Nhật Bản 120,4 nghìn lượt người, tăng 34,1%; Pháp 108 nghìn lượt người, tăng 70,6%; Đức 81,5 nghìn lượt người, tăng 64,1%; Ma-lai-xi-a 58,7 nghìn lượt khách, tăng 18,3%; Xin-ga-po 50,6 nghìn lượt người, tăng 14,2%; Canada 44,2 nghìn lượt người, tăng 38,4%; Thái Lan 39 nghìn lượt người, giảm 25,2%. Khách nội địa tháng Sáu ước tính đạt 165 nghìn lượt người, tăng 5% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý II/2024 đạt 476 nghìn lượt người, tăng 14,5% so với quý trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, khách nội địa đến Hà Nội đạt 892 nghìn lượt người, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tình hình hoạt động các cơ sở lưu trú: Tính đến cuối tháng Sáu, trên địa bàn Hà Nội có 3.760 cơ sở lưu trú du lịch với gần 71,2 nghìn phòng, trong đó có 607 khách sạn, khu căn hộ được xếp hạng từ 1-5 sao với 26,6 nghìn phòng, chiếm 16% tổng số cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn và 37% tổng số phòng. Trong tháng Sáu, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao ước đạt 66%, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 0,1% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao đạt 63,3%. Dịch vụ du lịch đạt chuẩn trên địa bàn Hà Nội hiện có 43 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, 41 cơ sở kinh doanh dịch vụ mua sắm, 7 cơ sở kinh doanh vui chơi giải trí và 2 cơ sở kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã được công nhận đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Hệ thống các cơ sở dịch vụ mua sắm, ăn uống, vui chơi giải trí đạt tiêu chuẩn phục vụ khách du lịch đã thu hút lượng lớn du khách và người dân đến thăm quan và mua sắm. 6.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Hoạt động xuất nhập khẩu của Thành phố trong quý II/2024 có những tín hiệu khả quan. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu quý II ước đạt 15,2 tỷ USD, tăng 13,5% so với quý trước và tăng 18,8% so với cùng kỳ. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 28,6 tỷ USD, tăng 13,7% so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 8,9 tỷ USD, tăng 11%; nhập khẩu đạt 19,7 tỷ USD, tăng 14,9%. Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Sáu ước tính đạt 1.617 triệu USD, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 19% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 950 triệu USD, tăng 0,8% và tăng 25,3%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 667 triệu USD, tăng 1% và tăng 11,1%. Trong tháng Sáu, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước như: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 238 triệu USD, tăng 17,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 224 triệu USD, tăng 73,8%; hàng nông sản đạt 169 triệu USD, tăng 75,8%; xăng dầu đạt 117 triệu USD, tăng 17,4%; hàng hóa khác đạt 392 triệu USD, tăng 24%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng dệt may đạt 171 triệu USD, giảm 10%; máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 163 triệu USD, giảm 12,5%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 57 triệu USD, giảm 10,4%; hàng gốm sứ đạt 17 triệu USD, giảm 15,2%. Ước tính quý II, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 4.679 triệu USD, tăng 11,1% so với quý I và tăng 11,1% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 8,9 tỷ USD, tăng 11% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 5,2 tỷ USD, tăng 14,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,7 tỷ USD, tăng 6,1%. Một số nhóm hàng chủ yếu có kim ngạch xuất khẩu tăng trong 6 tháng đầu năm: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 1.256 triệu USD, tăng 13,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1.069 triệu USD, tăng 29,5%; máy móc thiết bị và phụ tùng đạt 1.050 triệu USD, tăng 7%; hàng nông sản đạt 836 triệu USD, tăng 58,5%; xăng dầu đạt 741 triệu USD, tăng 14,7%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 371 triệu USD, tăng 1,2%; hàng hóa khác đạt 2.167 triệu USD, tăng 6,3%. Bên cạnh đó, 3/12 nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng dệt may đạt 962 triệu USD, giảm 4%; giầy dép và các sản phẩm từ da đạt 166 triệu USD, giảm 22,8%; điện thoại và linh kiện đạt 49 triệu USD, giảm 40,2%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Sáu ước tính đạt 3.591 triệu USD, tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 28,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 3 tỷ USD, tăng 2,2% và tăng 32%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 591 triệu USD, giảm 4,2% và tăng 14,2%. Trong tháng, hầu hết các mặt hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ năm trước: Máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 643 triệu USD, tăng 43,3%; xăng dầu đạt 408 triệu USD, tăng 9,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 244 triệu USD, tăng 67,6%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 234 triệu USD, tăng 37%; sắt thép đạt 181 triệu USD, tăng 35,5%; kim loại khác đạt 140 triệu USD, gấp 2 lần cùng kỳ; chất dẻo đạt 121 triệu USD, tăng 12,9%; hàng điện gia dụng và linh kiện đạt 79 triệu USD, tăng 36%; ngô đạt 78 triệu USD, gấp 6,5 lần cùng kỳ; hàng hóa khác đạt 1.181 triệu USD, tăng 16%. Duy nhất trong tháng 6 có nhóm hàng thức ăn gia súc có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ với kim ngạch nhập khẩu đạt 47 triệu USD, giảm 13,3%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý II ước đạt 10,5 tỷ USD, tăng 14,6% so với quý I và tăng 22,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 6 tháng đầu năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 19,7 tỷ USD, tăng 14,9% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 16,4 tỷ USD, tăng 17,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,3 tỷ USD, tăng 3,3%. Một số mặt hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong 6 tháng đầu năm nay: Máy móc thiết bị phụ tùng đạt 3.241 triệu USD, tăng 16,7%; xăng dầu đạt 2.715 triệu USD, tăng 13,1%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện 1.225 triệu USD, tăng 14,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng 1.115 triệu USD, tăng 16,2%; sắt thép 1.022 triệu USD, tăng 32,8%; kim loại khác đạt 659 triệu USD, tăng 45,2%; chất dẻo 631 triệu USD, tăng 9,8%; hàng hóa khác đạt 6.675 triệu USD, tăng 13,1%. 7. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 6/2024 tăng 0,07% so với tháng trước, tăng 0,66% so với tháng 12/2023 và tăng 5,39% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 6 tháng đầu năm tăng 5,32% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Trong tháng 6/2024, có 7/11 nhóm hàng CPI tăng so với tháng trước, trong đó: Nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,83% (tác động làm tăng CPI chung 0,04%)do đang vào dịp nghỉ Hè nên hoạt động văn hóa, giải trí và du lịch tăng cao. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,66% (tác động làm tăng CPI chung 0,13%) do miền Bắc có những đợt nắng nóng nên sản lượng tiêu thụ điện, nước tăng dẫn đến bình quân trong tháng giá điện tăng 1,97%; giá nước tăng 12,62%. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,39% (tác động làm tăng CPI chung 0,12%) chủ yếu do giá thực phẩm tăng 0,51%; lương thực tăng 0,46%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,07%. Các nhóm còn lại CPI tăng nhẹ: Đồ uống, thuốc lá tăng 0,12%; nhóm thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,06%; thuốc, dịch vụ y tế tăng 0,01%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,02%. Cũng trong tháng Sáu có 3/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm giao thông giảm 2,29% (tác động làm giảm CPI chung 0,22%) do giá xăng giảm 6,06% so với tháng trước, giá dầu diezen giảm 1,11%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép giảm 0,1%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,08%. Riêng nhóm giáo dục tương đương tháng trước. Bình quân quý II/2024, CPI tăng 5,52% so với bình quân quý II/2023, trong đó 10/11 nhóm hàng có CPI tăng: Giáo dục tăng 25,07%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,15%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,57%; giao thông tăng 3,7%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,51%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 2,91%; đồ uống và thuốc lá tăng 2,76%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 2,16%; thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,44%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,56%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,32%. Bình quân 6 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 5,32% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 31,53% (tác động làm CPI bình quân 6 tháng tăng 2,49%) do các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024; nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,02% (tác động làm CPI tăng 1,22%); thuốc và dịch vụ y tế tăng 3,66% (tác động làm CPI tăng 0,19%); hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,30% (tác động làm CPI tăng 1,02%); giao thông tăng 2,69% (tác động làm CPI tăng 0,26%); đồ uống và thuốc lá tăng 2,64% (tác động làm CPI tăng 0,05%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,91% (tác động làm CPI tăng 0,11%); văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,23%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,08%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,04% chủ yếu do giá đồ trang sức và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng đã tác động làm CPI bình quân chung tăng 0,25%. Riêng bưu chính viễn thông giảm 1,4% (tác động làm CPI giảm 0,08%). Chỉ số giá vàng tháng Sáu giảm 0,54% so với tháng trước, tăng 21,53% so với tháng 12/2023 và tăng 33,71% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý II/2024 chỉ số giá vàng tăng 32,59% so với bình quân quý II/2023. Bình quân 6 tháng đầu năm nay, chỉ số giá vàng tăng 26,30% so với bình quân 6 tháng đầu năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Sáu giảm 0,03% so với tháng trước, tăng 4,22% so với tháng 12/2023 và tăng 7,58% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý II/2024 chỉ số giá đô la Mỹ tăng 7,17% so với bình quân quý II/2023. Bình quân 6 tháng đầu năm nay, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,50% so với bình quân 6 tháng đầu năm trước. 8. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán Những tháng đầu năm 2024, Thành phố tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các giải pháp tăng thu ngân sách, đẩy mạnh công tác quyết toán các dự án hoàn thành; tăng cường giải ngân vốn đầu tư công; chỉ đạo điều hành chi ngân sách đúng quy định, đáp ứng nhiệm vụ chi thường xuyên trong năm. Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6 tháng năm nay ước tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách tăng địa phương 24,2%; các tổ chức tín dụng thực hiện điều chỉnh giảm mức lãi suất nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp và duy trì tăng trưởng. 8.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6 tháng đầu năm 2024 ước thực hiện 252,1 nghìn tỷ đồng, đạt 61,7% dự toán pháp lệnh năm và tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Thu nội địa 237,7 nghìn tỷ đồng, đạt 62,8% dự toán và tăng 12,8%; thu từ dầu thô 2 nghìn tỷ đồng, đạt 66,5% và tăng 3,1%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 12,3 nghìn tỷ đồng, đạt 45,6% và tăng 9,2%.Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 6 tháng đầu năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 44,2 nghìn tỷ đồng, đạt 62,7% dự toán năm và tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 16,4 nghìn tỷ đồng, đạt 61,4% và tăng 15,8%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 54 nghìn tỷ đồng, đạt 68,7% và tăng 23,1%; thuế thu nhập cá nhân 26,5 nghìn tỷ đồng, đạt 64,6% và tăng 22,5%; thu tiền sử dụng đất 11 nghìn tỷ đồng, đạt 30,5% và gấp 3,1 lần cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 3,4 nghìn tỷ đồng, đạt 52% tăng 8,8%; thu phí và lệ phí 10,5 nghìn tỷ đồng, đạt 53,8% và tăng 9,3%.Chi ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm 2024 ước thực hiện 48 nghìn tỷ đồng, đạt 32,8% dự toán năm và tăng 24,2% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chi thường xuyên 25,1 nghìn tỷ đồng, đạt 43,8% và tăng 10,6%; chi đầu tư phát triển 22,9 nghìn tỷ đồng, đạt 28,2% và tăng 43,6%. Một số lĩnh vực chi chủ yếu trong chi thường xuyên ngân sách địa phương 6 tháng đầu năm 2024: Chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề ước thực hiện 8,4 nghìn tỷ đồng, đạt 47,8% dự toán và tăng 14,7% so với cùng kỳ năm trước; chi các hoạt động kinh tế 4,6 nghìn tỷ đồng, đạt 36,9% và tăng 2,3%; chi quản lý hành chính Nhà nước 4,1 nghìn tỷ đồng, đạt 46,2% và tăng 13,3%; chi đảm bảo xã hội 2,4 nghìn tỷ đồng, đạt 45,6% và tăng 18,2%; chi y tế, dân số và gia đình 1,8 nghìn tỷ đồng, đạt 56,7% và tăng 0,3%; chi bảo vệ môi trường 1,3 nghìn tỷ đồng, đạt 41% và tăng 18,2%.8.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Tháng Sáu, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định, mặt bằng lãi suất huy động ở mức thấp, phổ biến ở mức 0,1 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 1,9 - 3,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 3 - 5,4%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 4,7 - 5,8%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay cũ và mới còn dư nợ ở mức 7,3 - 9,5%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,6%/năm theo quy định của NHNN. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 6/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.322 nghìn tỷ đồng, tăng 0,12% so với tháng trước và giảm 0,26% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó tiền gửi đạt 4.680 nghìn tỷ đồng, tăng 0,13% và tăng 0,22%; phát hành giấy tờ có giá đạt 642 nghìn tỷ đồng, tăng 0,01% và giảm 3,61%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 6/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 3.832 nghìn tỷ đồng, tăng 0,81% so với tháng trước và tăng 5,95% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 1.619 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% và tăng 7,58%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.213 nghìn tỷ đồng, tăng 0,74% và tăng 4,78%. Tính đến cuối tháng 6/2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,9% trong tổng dư nợ. Các TCTD trên địa bàn chú trọng tăng trưởng tín dụng, đưa ra nhiều chương trình, gói tín dụng ưu đãi, áp dụng các chính sách lãi suất linh hoạt. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 14,92% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,9%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,14%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,32%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,36%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%. 8.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết tháng 5/2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.195 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 317 doanh nghiệp và Upcom có 878 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 597,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 158,2 nghìn tỷ đồng, giảm 0,6% và tăng 7,3%; Upcom đạt 439 nghìn tỷ đồng, tăng 1% và tăng 4,7%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng của tháng Năm đạt 1.813 nghìn tỷ đồng, tăng 16,5% so với tháng trước và tăng 38,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 335 nghìn tỷ đồng, tăng 8,8% và tăng 20,6%; Upcom đạt 1.478 nghìn tỷ đồng, tăng 18,4% và tăng 43,3%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tháng Năm, khối lượng giao dịch đạt 2.156 triệu CP được chuyển nhượng, tăng 14% so với tháng trước và giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 43,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10,4% và tăng 37,1%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh đạt 2.038 triệu CP, tăng 14,4% và giảm 0,3%; giá trị đạt 40,4 nghìn tỷ đồng, tăng 9,4% và tăng 35,5%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, khối lượng giao dịch đạt 9,4 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 188,4 nghìn tỷ đồng, tăng 16,8% về khối lượng và tăng 60,1% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Năm, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 286 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 24 mã giao dịch; cá nhân 262 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 5 tháng đầu năm 2024 đạt 677 nghìn tài khoản. II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI 1. Giải quyết việc làm Thành phố tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp hỗ trợ, phát triển thị trường lao động trên địa bàn. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, toàn Thành phố giải quyết việc làm cho 124,9 nghìn lao động, đạt 75,7% kế hoạch năm, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước. Trong 6 tháng đầu năm 2024, Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho đối tượng nghèo, đối tượng chính sách xã hội vay với tổng số tiền là 2,1 nghìn tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 37,3 nghìn lao động; Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tổ chức thành công 128 phiên giao dịch việc làm (trong đó 103 phiên hàng ngày, 04 phiên chuyên đề, 08 phiên trực tuyến kết nối với các tỉnh, 12 phiên lưu động, 01 phiên lồng ghép tuyển dụng lao động là người khuyết tật) với 3.746 đơn vị, doanh nghiệp tham gia và 27,2 nghìn lượt lao động được phỏng vấn, kết quả có 8,7 nghìn người được tuyển dụng sau khi kết thúc phiên giao dịch; có 2,2 nghìn người được giải quyết đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng tại thị trường Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc; 76,7 nghìn người tự tạo việc làm qua tư vấn, giới thiệu việc làm của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm trên địa bàn Thành phố. Cũng trong 6 tháng đầu năm nay, Thành phố ra quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cho 35,9 nghìn người, giảm 12,9% so với cùng kỳ năm 2023 với số tiền hỗ trợ 1.088 tỷ đồng; 100% trường hợp đề nghị hưởng BHTN được tư vấn tìm việc làm mới, trong đó hỗ trợ đào tạo nghề cho 385 người với số tiền 1,5 tỷ đồng. 2. Bảo đảm an sinh xã hội Trong 6 tháng đầu năm, công tác bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được Thành phố và các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Hoạt động hỗ trợ, thăm hỏi, tặng quà được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng. Trong dịp Tết Nguyên đán Giáp Thìn 2024, Thành phố đã tặng hơn 2,2 triệu suất quà cho các đối tượng chính sách ưu đãi, người có công, hộ nghèo, cận nghèo, người cao tuổi, đối tượng bảo trợ xã hội, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, công nhân viên chức lao động đã nghỉ hưu, mất sức với tổng số tiền 1.033 tỷ đồng, đạt 186,5% kế hoạch tặng quà của Thành phố, tăng 198,6 tỷ đồng, tương đương tăng 23,8% so với kết quả tặng quà Tết Nguyên đán Quý Mão 2023. Trong 6 tháng đầu năm, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 5,2 nghìn hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi người có công và thân nhân người có công; tổng kinh phí chi cho công tác ưu đãi người có công là 1.252 tỷ đồng, trong đó thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp cho gần 80 nghìn người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 1.094 tỷ đồng; chi trả trợ cấp một lần 88 tỷ đồng; chi điều dưỡng người có công 35 tỷ đồng; chi quà Tết 35 tỷ đồng. Cũng trong thời gian này, Thành phố đã khởi công xây dựng, sửa chữa nhà ở cho 686 hộ nghèo, hộ cận nghèo tại 15 huyện, thị xã đạt 94,7% kế hoạch năm, trong đó 272 nhà đã hoàn thành với tổng số tiền giải ngân 30,8 tỷ đồng. Dự kiến hoàn thành 100% kế hoạch sửa chữa nhà ở cho hộ nghèo trước 30/9/2024. Đến nay, toàn Thành phố có trên 203 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng với tổng kinh phí chi trả 6 tháng đầu năm 2024 là 896,9 tỷ đồng. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.020 đối tượng bảo trợ xã hội là người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,8 triệu đồng/người/tháng và chi khác 350 nghìn đồng/tháng. 3. Bảo hiểm Chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế 6 tháng đầu năm 2024 tiếp tục được Thành phố tổ chức thực hiện hiệu quả; tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng. Năm 2024, theo kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 94,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 45% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 40% lực lượng lao động. Ước tính đến hết 6 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 94,33% dân số với 8.051 nghìn người tham gia, tăng 0,78% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 3,83% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.079 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 44,37% lực lượng trong độ tuổi lao động), tăng 1,02% và tăng 4,89%; hơn 111 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,43%), tăng 4,42% và tăng 45,49%. Số người tham gia BHTN là 2.011 nghìn người (chiếm 40,05%), tăng 1,03% và tăng 4,78%. Tính đến cuối tháng 5/2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 33,5 nghìn tỷ đồng, tăng 18,16% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 38,1 nghìn tỷ đồng, tăng 13,6% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hằng tháng là 21,2 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 12,3 nghìn tỷ đồng).4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghềNăm học 2023 - 2024,toàn Thành phố có 2.874 Trường mầm non, phổ thông; 29 Trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 1 Trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục Hà Nội (tăng 34 trường mầm non và phổ thông so với cùng kỳ năm trước) với 66,1 nghìn lớp (tăng 1.919 lớp); hơn 2,2 triệu học sinh (tăng 68,9 nghìn học sinh); 124,5 nghìn giáo viên (tăng 1.525 giáo viên); 66,1 nghìn phòng học (tăng 846 phòng). Trong đó, trường tư thục có 578 trường với 17,7 nghìn lớp; 332,1 nghìn học sinh; 35,4 nghìn giáo viên và 19,2 nghìn phòng học (tăng 5 trường, 1.647 lớp, 20.467 học sinh, 2.024 giáo viên, 1.070 phòng học so với cùng kỳ năm trước).Công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia tiếp tục được Thành phố quan tâm chỉ đạo, triển khai thực hiện. Đến cuối tháng 6/2024, trên địa bàn Thành phố có 64,4% tổng số trường đạt chuẩn quốc gia (công lập 79,4%). Trong đó tỉ lệ đạt chuẩn quốc gia của các cấp học: Mầm non là 55% (công lập 77,5%); Tiểu học 73% (công lập 77,5%); Trung học cơ sở 81,2% (công lập 87,1%); Trung học phổ thông 37,1% (công lập 67,2%). Thành phố tiếp tục triển khai Kế hoạch xây dựng, phấn đấu đến cuối năm 2024 công nhận mới 114 trường đạt chuẩn quốc gia (trong đó mầm non 43 trường, tiểu học 44 trường, THCS 24 trường, THPT 3 trường); công nhận lại cho 300 trường (mầm non 103 trường, tiểu học 83 trường, THCS 94 trường và THPT 20 trường).Năm học 2023 - 2024, Hà Nội tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu cả nước trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế với 12 học sinh đạt giải quốc tế, 184 học sinh đạt giải quốc gia (tăng 43 giải so với năm học trước), 3 học sinh được lựa chọn tham gia đội tuyển Việt Nam tham dự kỳ thi Olympic quốc tế; 3 giải tại kỳ thi Khoa học kỹ thuật quốc gia; 35 học sinh đạt giải quốc gia trong Cuộc thi học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp, hơn 5.000 học sinh giỏi cấp Thành phố; 136 học sinh xuất sắc được kết nạp Đảng. Trong tháng Sáu, Thành phố đã tổ chức thành công kỳ thi vào lớp 10 THPT năm học 2024-2025 với sự tham gia của 106 nghìn thí sinh tại 201 điểm thi với 4.500 phòng thi (không chuyên) và gần 20 nghìn cán bộ, giáo viên, nhân viên tham gia công tác coi thi, chấm thi và phục vụ bảo vệ điểm thi. Ngoài ra còn có 590 cán bộ giám sát tại các điểm thi và hơn 1.000 cán bộ, chiến sĩ Công an thực hiện nhiệm vụ bảo vệ khu vực thi; 100% các điểm thi trên địa bàn Thành phố bảo đảm mọi điều kiện về cơ sở vật chất theo quy định. Công tác tổ chức kỳ thi được thực hiện nghiêm túc, bảo đảm an toàn. Đến nay, công tác chuẩn bị cơ sở vật chất và các điều kiện phục vụ kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm học 2023-2024 đã hoàn thành, 100% điểm thi trên địa bàn được kiểm tra ở tất cả các khâu. Hà Nội có số lượng thí sinh lớn nhất cả nước với 109,5 nghìn thí sinh đăng ký dự thi (95,9 nghìn thí sinh dự thi theo chương trình giáo dục THPT; 13,6 nghìn thí sinh dự thi theo chương trình giáo dục thường xuyên), được bố trí 196 điểm thi trên địa bàn 30 quận, huyện, thị xã với 5.073 phòng thi, trong đó có 4.532 phòng thi chính thức; 176 phòng chờ, 392 phòng thi dự phòng. Về giáo dục nghề nghiệp, hiện nay trên địa bàn Thành phố có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp, cơ sở hoạt động giáo dục nghề, trong đó: 67 trường cao đẳng, 58 trường trung cấp, 75 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề, 113 doanh nghiệp, loại hình khác. Tính chung 6 tháng đầu năm, các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh được 107,9 nghìn lượt người (trong đó 8,2 nghìn người trình độ cao đẳng; 9,2 nghìn người trình độ trung cấp; 90,5 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 03 tháng) đạt 45,9% kế hoạch tuyển sinh năm 2024 và tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2023. Có gần 91 nghìn học sinh, sinh viên tốt nghiệp (trong đó 7,1 nghìn người trình độ cao đẳng; 8,5 nghìn người trình độ trung cấp; 75,4 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 03 tháng).5. Tình hình dịch bệnh Trong tháng Sáu, trên địa bàn Thành phố không ghi nhận ổ dịch lớn, số ca mắc dịch bệnh mùa Hè giảm mạnh so với tháng trước. Công tác phòng chống dịch bệnh và vệ sinh an toàn thực phẩm tiếp tục được Thành phố quan tâm thực hiện. Theo số liệu của Sở Y tế Hà Nội, trong 6 tháng đầu năm 2024 tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue trong tháng 6/2024 ghi nhận 93 ca mắc; cộng dồn từ đầu năm 2024 đến nay Thành phố ghi nhận 745 ca mắc (cùng kỳ năm 2023 có 360 ca mắc). Bệnh Tay chân miệng ghi nhận 241 ca mắc; cộng dồn từ đầu năm đến nay có 1.472 ca mắc (cùng kỳ 764 ca mắc). Bệnh thủy đậu 66 ca mắc; cộng dồn 627 ca mắc (cùng kỳ 1.678 ca mắc). Số ca mắc Covid-19 ghi nhận 31 ca; cộng dồn 667 ca mắc (cùng kỳ 16,3 nghìn ca mắc). Ho gà 36 ca mắc; cộng dồn 116 ca mắc. Các bệnh truyền nhiễm khác xuất hiện rải rác không đáng kể, Hà Nội chưa ghi nhận ca mắc đậu mùa khỉ, bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Trong 6 tháng đầu năm, Thành phố đã đẩy mạnh công tác quản lý an toàn thực phẩm, chủ động phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm, khống chế không để ngộ độc thực phẩm nhất là những nơi đông người gây tử vong góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định an toàn xã hội và nâng cao đời sống người dân. 6. Hoạt động văn hóa, thể thao Trong 6 tháng đầu năm 2024, hoạt động Lễ hội, vui chơi, giải trí, văn hóa nghệ thuật diễn ra sôi động. Tại các di tích lịch sử thu hút lượng lớn khách đến tham quan với hơn 1,8 triệu lượt người, hoàn thành kế hoạch năm. Hoạt động thể thao tiếp tục được quan tâm hướng tới các giải đấu chuyên nghiệp trong nước và quốc tế. Hoạt động văn hóa: Thành phố tổ chức tuyên truyền cổ động trực quan, trang trí, chiếu sáng kỷ niệm các ngày Lễ quan trọng trong năm 2024 như mừng Đảng, mừng Xuân, kỷ niệm 124 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Công tác tuyên truyền cổ động trực quan được triển khai với khối lượng lớn, đa dạng, phong phú. Tính chung 6 tháng đầu năm nay, Thành phố đã đăng 529 tin, bài tuyên truyền về các hoạt động kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô trên các báo, tạp chí (in và điện tử) thành phố Hà Nội đăng Chuyên mục “Kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô”; gửi 19 tin, bài tới gần 10,3 triệu lượt người sử dụng Zalo; đăng 19 tin bài trên mạng xã hội Lotus; lan tỏa 215 tin, bài trên các trang thông tin điện tử tổng hợp có lượng người truy cập lớn như baomoi, soha. Thực hiện công tác thông tin tuyên truyền, cổ động trực quan với 8.348 m2 pano; 10,8 nghìn chiếc băng rôn; hơn 14 nghìn cờ Quốc kỳ, Đảng kỷ; 40 cụm cờ, 17 cụm mô hình cố định trên các trục đường, tuyến phố chính, khu vực trung tâm Thành phố. Cũng trong 6 tháng đầu năm nay, các di tích trên địa bàn đã thu hút hơn 1,8 triệu lượt khách tham quan, hoàn thành kế hoạch giao cả năm; doanh thu phí ước đạt 98,5 tỷ đồng, đạt 131% kế hoạch dự toán giao. Các đơn vị nghệ thuật đã tổ chức 1.172 buổi biểu diễn có thu và phục vụ chính trị, đạt 53,5% kế hoạch giao cả năm; doanh thu biểu diễn đạt 25 tỷ đồng, đạt 51,6%; thu hút trên 360 nghìn lượt khán giả, đạt 48%. Hoạt động thể thao: Trong tháng 6/2024, Thành phố đã cử các đoàn huấn luyện viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế, đồng thời phối hợp tổ chức các giải thi đấu chuyên nghiệp theo kế hoạch. Thể thao thành tích cao Hà Nội 6 tháng đầu năm 2024 đạt 1.064 huy chương trong đó: 52 huy chương tại các giải đấu quốc tế (7 huy chương Vàng, 20 huy chương Bạc, 25 huy chương Đồng) và 1.012 huy chương trong nước (389 huy chương Vàng, 316 huy chương Bạc, 307 huy chương Đồng). Thể thao quần chúng tiếp tục được tổ chức tại các quận, huyện, thị xã với các giải đấu, hội thi thể dục thể thao tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích, góp phần nâng cao sức khỏe cho nhân dân tại địa phương và các vùng lân cận. Các hoạt động thể dục thể thao đa dạng, phong phú, phù hợp với mọi lứa tuổi, từ những môn thể thao cổ truyền của dân tộc đến những môn thể thao được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tập luyện như: Bóng đá, Bóng chuyền, Cầu lông, Võ, Quần vợt, Bóng bàn... 7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Sáu (từ 15/5/2024 đến 14/6/2024) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng phát hiện 630 vụ phạm pháp hình sự, trong đó 359 vụ do công an khám phá; số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 720 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 351 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 397 đối tượng, thu nộp ngân sách 42,2 tỷ đồng. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2024, phát hiện 3.515 vụ phạm pháp hình sự, bắt giữ theo luật 3.540 đối tượng; 1.995 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế, bắt giữ 2.298 đối tượng; thu nộp ngân sách 113,5 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 49 vụ cờ bạc, bắt giữ 209 đối tượng. Tổng số vụ vi phạm pháp luật về ma túy bị phát hiện là 318 vụ, bắt giữ 498 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 306 vụ với 446 đối tượng. Cộng dồn 6 tháng đầu năm nay, trên địa bàn Thành phố đã phát hiện 331 vụ cờ bạc, bắt giữ 1.661 lượt đối tượng; số vụ vi phạm pháp luật về ma tuý bị phát hiện là 1.947 vụ, bắt giữ 2.958 lượt đối tượng. Tai nạn giao thông: Tháng 6/2024, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 108 vụ tai nạn giao thông làm 39 người chết và bị thương 94 người. Trong đó: 106 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm chết 39 người và bị thương 93 người; 2 vụ tai nạn đường sắt làm bị thương 1 người. Trong các vụ tai nạn có 2 vụ rất nghiêm trọng làm 4 người chết và 2 người bị thương; 41 vụ nghiêm trọng làm 35 người chết và 18 người bị thương; 65 vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm làm 74 người bị thương. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2024, xảy ra 805 vụ tai nạn giao thông, trong đó 792 vụ tai nạn đường bộ và 13 vụ tai nạn đường sắt, làm 339 người chết và 688 người bị thương (6 tháng đầu năm 2023 xảy ra 261 vụ tai nạn giao thông làm 122 người chết và 224 người bị thương). Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng phát hiện 1.517 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 1.523 lượt đối tượng; xử lý là 1.497 vụ với 1.506 đối tượng; thu nộp ngân sách hơn 7,9 tỷ đồng. Cũng trong tháng Sáu, trên địa bàn Thành phố xảy ra 107 vụ cháy (trong đó 1 vụ cháy lớn, 1 vụ cháy nghiêm trọng, 11 vụ cháy trung bình, 93 vụ cháy nhỏ) làm 14 người chết và 3 người bị thương. Cộng dồn 6 tháng đầu năm 2024, ghi nhận 4.503 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 4.533 lượt đối tượng; 595 vụ cháy làm 20 người chết và 9 người bị thương (6 tháng đầu năm 2023 xảy ra 128 vụ cháy làm 6 người chết và 9 người bị thương). Khái quát lại, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn khó khăn, nhưng với sự chủ động, chỉ đạo quyết liệt của Thành phố, kinh tế - xã hội Thủ đô đã đạt được các kết quả quan trọng trong 6 tháng đầu năm 2024: GRDP tăng 6,0% với xu hướng tăng trưởng quý II cao hơn quý I; tổng thu NSNN trên địa bàn đạt 61,7% dự toán năm, tăng 12,5%. Thực hiện đầu tư từ NSNN do địa phương quản lý tăng 25,3%; thu hút gần 1,2 tỷ USD vốn FDI. Sản xuất nông nghiệp đạt khá; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội tăng 10,7%; khách du lịch đến Hà Nội tăng 36,9%. Các lĩnh vực văn hóa, giáo dục tiếp tục phát triển, an sinh xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, kinh tế Thành phố 6 tháng đầu năm nay cũng gặp nhiều khó khăn: Tốc độ tăng trưởng chậm so với kế hoạch; sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất, nhập khẩu đạt thấp, chưa có sự chuyển biến mạnh mẽ; chỉ số giá tiêu dùng bình quân tăng cao so với cùng kỳ; số doanh nghiệp ngừng hoạt động và giải thể còn lớn. Năm 2024 có ý nghĩa rất quan trọng đối với cả nước và Thủ đô Hà Nội. Thời gian tới dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế trong nước và Thành phố còn gặp nhiều khó khăn, thách thức từ các yếu tố tác động tiêu cực bên ngoài cũng như hạn chế, bất cập nội tại của nền kinh tế cần phải khắc phục. Để thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố năm 2024, nhiệm vụ 6 tháng cuối năm là rất lớn, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi đơn vị cần tiếp tục khẩn trương, tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, đồng thời tập trung thực hiện một số nội dung sau: Một là, đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước trên mọi lĩnh vực. Tập trung tối đa nguồn lực, đẩy mạnh giải ngân, thực hiện hiệu quả vốn đầu tư công năm 2024. Hoàn thành nhanh, gọn từng dự án đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình; xử lý hồ sơ, thủ tục thanh, quyết toán theo quy định; khẩn trương hoàn thiện thủ tục đầu tư để khởi công các dự án mới. Đôn đốc quyết liệt tiến độ các công trình trọng điểm, các công trình thiết yếu, dự án nhà ở xã hội; tập trung tháo gỡ khó khăn tối đa cho các dự án ODA, dự án vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư ngoài ngân sách nhằm đẩy mạnh kích cầu đầu tư. Hai là, thúc đẩy sản xuất công nghiệp, nâng cao hiệu quả, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp; thu hút các dự án đầu tư công nghiệp lớn có vai trò quan trọng nhằm gia tăng năng lực sản xuất trên địa bàn. Tiếp tục đẩy mạnh sản xuất công nghiệp theo định hướng Chương trình phát triển các ngành công nghiệp ưu tiên, Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ và Đề án phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực của Thành phố. Ba là, theo dõi sát diễn biến cung cầu giá cả thị trường; tăng cường công tác quản lý, điểu hành, bình ổn thị trường giá cả, kiểm tra, giám sát việc kê khai, niêm yết giá và việc bán theo giá niêm yết; xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng tăng giá bất hợp lý. Chủ động dự báo, xây dựng, cập nhật kịch bản điều hành giá và phương án, lộ trình điều chỉnh một số dịch vụ công, dịch vụ y tế, giáo dục theo mức độ và thời điểm phù hợp với diễn biến thị trường, bảo đảm mục tiêu kiểm soát lạm phát. Bốn là, tập trung khai thác và phát triển thị trường nội địa, nâng cao sức tiêu dùng trong nước và phát triển thương hiệu Việt, thực hiện hiệu quả cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Đẩy mạnh ứng dụng nền tảng địa chỉ số trong hoạt động du lịch; tiếp tục số hóa hệ thống thông tin số về khu, điểm du lịch Hà Nội, các điểm đến làng nghề, di tích, di sản văn hóa trên địa bàn Thành phố; xây dựng hệ thống phần mềm tiện ích, thông minh hỗ trợ khách du lịch tra cứu thông tin du lịch Hà Nội. Năm là, thực hiện cơ cấu lại sản xuất trong lĩnh vực trồng trọt theo mục tiêu nâng cao hiệu quả sử dụng đất, giảm diện tích trồng lúa, tập trung phát triển lúa gạo theo hướng tăng cơ cấu giống lúa chất lượng; mở rộng diện tích trồng rau, tăng diện tích hoa, cây cảnh hàng năm. Tiếp tục chăn nuôi theo vùng, xã trọng điểm phù hợp với từng vùng và định hướng phát triển của Thành phố. Nâng cao thương hiệu, sản phẩm OCOP, ưu tiên các sản phẩm đặc sản vùng miền, làng nghề có sự tham gia đông đảo của cộng đồng. Sáu là, thực hiện tốt công tác an sinh, phúc lợi xã hội; hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng chính sách thường xuyên và đột xuất. Tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ./.
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng Năm và 5 tháng đầu năm 2024
- 29/05/2024 11:29
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản 1.1. Nông nghiệp Hoạt động sản xuất nông nghiệp trong tháng tập trung vào chăm sóc lúa, cây màu vụ Xuân và phát triển đàn gia súc, gia cầm. Diện tích gieo cấy lúa vụ Xuân năm nay đạt 80,9 nghìn ha, bằng 98,1% cùng kỳ năm trước. Thời điểm này, lúa đang giai đoạn trỗ, chín sáp; trà lúa sớm đang dần chín bắt đầu cho thu hoạch. Về cây màu vụ Đông xuân năm nay, Thành phố gieo trồng được 129,1 nghìn ha cây hàng năm, bằng 98,5% cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích ngô đạt 8,9 nghìn ha, bằng 99,6%; khoai lang 1,1 nghìn ha, tăng 0,7%; đậu tương 931 ha, bằng 99,6%; lạc 1,5 nghìn ha, bằng 92,3%; rau 24,2 nghìn ha, bằng 98%; đậu 294 ha, tăng 19%. Chăn nuôi gia súc, gia cầm trong tháng ổn định, không có dịch bệnh lớn xảy ra. Đàn lợn hiện có 1,46 triệu con, tăng 1% so với cùng kỳ năm 2023; đàn trâu 29,4 nghìn con, tăng 2,1%; đàn bò 126,2 nghìn con, giảm 1,9%; đàn gia cầm 41,2 triệu con, tăng 1,5% (đàn gà 27,3 triệu con, tăng 1,6%). Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng ước đạt 106,9 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ năm 2023; thịt trâu 879 tấn, tăng 2,2%; thịt bò 4,5 nghìn tấn, giảm 0,1%; thịt gia cầm 69,1 nghìn tấn, tăng 3,1% (thịt gà 52,2 nghìn tấn, tăng 4%); trứng gia cầm 1.210 triệu quả, tăng 4,1%. 1.2. Lâm nghiệp và thủy sảnSản xuất lâm nghiệp trong tháng tập trung chủ yếu vào công tác chăm sóc và bảo vệ rừng. Trong tháng Năm, sản lượng gỗ khai thác đạt 1,7 nghìn m3, bằng 96,1% cùng kỳ năm trước; sản lượng củi đạt 63 ste, tăng 3,3%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 90 ha, bằng 97,8% cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán đạt 454 nghìn cây, tăng 0,9%; sản lượng gỗ khai thác đạt 8,5 nghìn m3, bằng 96%; sản lượng củi đạt 304 ste, tăng 3,4%. Sản lượng thủy sản tháng Năm ước đạt 10,4 nghìn tấn (chủ yếu sản lượng cá), tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 10,3 nghìn tấn, tăng 3,5%; thủy sản khai thác đạt 107 tấn, giảm 1,8%. Tính chung 5 tháng đầu năm, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 47,9 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 47,4 nghìn tấn, tăng 3,5%; sản lượng thủy sản khai thác đạt 499 tấn, giảm 2,2%. 2. Sản xuất công nghiệpChỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Năm tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 5,3% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 1,3% và tăng 4,4%; sản xuất và phân phối điện tăng 7,3% và tăng 13,6%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 2,5% và tăng 11,2%; ngành khai khoáng giảm 9,7% so với tháng trước và cùng kỳ năm trước. Ước tính 5 tháng đầu năm 2024, chỉ số IIP tăng 4,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,7%; sản xuất và phân phối điện tăng 14,7%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 9,7%; khai khoáng giảm 7,3%.Trong 5 tháng đầu năm nay, một số ngành chế biến, chế tạo đạt mức tăng khá so với cùng kỳ như: Sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 13,7%; sản xuất thiết bị điện tăng 13,4%; sản xuất máy móc, thiết bị tăng 11,7%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 11,1%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 10,1%. Bên cạnh đó, 5 ngành sản xuất có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc giảm 9,8%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ và sản xuất xe có động cơ giảm 4,2%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 3,1%; dệt giảm 0,6%. Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp ước đến cuối tháng 5/2024 tăng 0,7% so với tháng trước và giảm 0,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm nay, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước giảm 2,8%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài giảm 1,9%; khu vực Nhà nước tăng 1,2%. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 2,2% (trong đó sản xuất máy móc, thiết bị giảm 20,7%; dệt giảm 10,2%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 5,5%); ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,6%; ngành khai khoáng tăng 24,9%. 3. Thực hiện vốn đầu tư từ nguồn ngân sách Nhà nước Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Năm ước tính đạt 4.686 tỷ đồng, tăng 15,6% so với thực hiện tháng trước và tăng 24,3% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 1.909 tỷ đồng, tăng 25,4% và tăng 19,8%; vốn NSNN cấp huyện 2.543 tỷ đồng, tăng 8,5% và tăng 24,8%; vốn NSNN cấp xã 234 tỷ đồng, tăng 25,3% và tăng 68,1%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, vốn đầu tư từ nguồn NSNN do địa phương quản lý thực hiện được 18,7 nghìn tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước và đạt 24% kế hoạch năm 2024, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố 7,4 nghìn tỷ đồng, tăng 13,9% và đạt 20,6%; vốn NSNN cấp huyện 10,4 nghìn tỷ đồng, tăng 32,5% và đạt 27%; vốn NSNN cấp xã 0,9 nghìn tỷ đồng, tăng 50,6% và đạt 25,8%. Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố: Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, dự án đang được các địa phương tích cực triển khai bàn giao mặt bằng để thi công toàn bộ dự án đảm bảo tiến độ đã đề ra. Đến thời điểm này, tổng vốn đã đầu tư cho dự án khoảng 12,6 nghìn tỷ đồng, tiến độ thi công xây lắp đạt 9,2%. Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 30,7% kế hoạch vốn. Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 7,3% kế hoạch vốn. Dự án tuyến đường cao tốc Đại Lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 7% kế hoạch vốn. Dự án Xây dựng Bệnh viện Nhi Hà Nội - giai đoạn 1: Với tổng mức đầu tư gần 785 tỷ đồng, dự án được xây dựng trên khu đất có tổng diện tích 67,9 nghìn m2 tại phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông. Quy mô dự án gồm 1 khối nhà cao 6 tầng có 2 đơn nguyên với năng lực thiết kế 200 giường bệnh nội trú. Đến nay dự án đã giải ngân 50,2% kế hoạch vốn. Công trình dự kiến hoàn thành, đưa vào sử dụng cuối năm 2024. Dự án Cung Thiếu nhi Hà Nội: Dự án được khởi công tháng 3/2021 với tổng mức đầu tư hơn 1,3 nghìn tỷ đồng. Công trình được xây dựng tại Khu công viên và hồ điều hòa CV1 thuộc Khu đô thị mới Cầu Giấy với tổng diện tích 39,6 nghìn m2, trong đó diện tích xây dựng 10,3 nghìn m2. Đến nay dự án đã giải ngân 74,6% kế hoạch vốn. Dự kiến công trình hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng trong cuối năm 2024. 4. Thu hút đầu tư nước ngoài và đăng ký doanh nghiệp 4.1. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) Tháng Năm, thành phố Hà Nội có 19 dự án FDI được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 17,3 triệu USD; có 7 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với 70,7 triệu USD; có 19 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần với số vốn đạt 10,6 triệu USD. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, toàn Thành phố thu hút 1.120 triệu USD vốn FDI, trong đó đăng ký cấp mới 92 dự án với số vốn đạt 1.025 triệu USD; 64 dự án bổ sung tăng vốn đầu tư với 36,8 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần 86 lượt, đạt 57,9 triệu USD. 4.2. Tình hình đăng ký doanh nghiệp Trong tháng Năm, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 3.248 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 28,2 nghìn tỷ đồng, giảm 28,9%; 945 doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 74,7%; 2.064 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 98,6%; 348 doanh nghiệp giải thể, tăng 14,7%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 12,9 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 124,3 nghìn tỷ đồng, giảm 2% về số lượng doanh nghiệp và giảm 3,5% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 5,4 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 18,5%; gần 16,2 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 29,4%; có 1,7 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 14,8%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn. 5. Hoạt động thương mại, dịch vụ 5.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng Trong tháng Năm, Thành phố thực hiện tốt công tác bình ổn thị trường, tăng cường kết nối cung cầu hàng hóa, bảo đảm an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của người dân trong dịp nghỉ Lễ kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và Ngày Quốc tế Lao động 1/5. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Năm ước tính đạt 69 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% so với tháng trước và tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 43,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 12,2%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 8,9 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% và tăng 10,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,3 nghìn tỷ đồng, tăng 2,6% và tăng 46,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 14 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 8,9%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 336,5 nghìn tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 215,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 64,1% tổng mức và tăng 10% (đá quý, kim loại quý tăng 29,4%; lương thực, thực phẩm tăng 11,9%; hàng may mặc tăng 10,1%, ô tô con tăng 8,1%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 7,5%; xăng dầu tăng 7,1%; phương tiện đi lại trừ ô tô con tăng 6,7%; gỗ và vật liệu xây dựng tăng 5,3%; hàng hóa khác tăng 12,7%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 43 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,8% và tăng 12,4% (dịch vụ lưu trú tăng 34,8%; dịch vụ ăn uống tăng 10,1%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 10,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,2% và tăng 48,9%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 67,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,9% và tăng 4,3%. 5.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát Vận chuyển hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng Năm ước đạt 35,4 triệu lượt người, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 12,4% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt hơn 1 tỷ lượt người.km, tăng 0,4% và tăng 10%; doanh thu ước tính đạt 1,8 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% và tăng 17,8%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 170,5 triệu lượt người, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 5,1 tỷ lượt người.km, tăng 19,1%; doanh thu đạt 9 nghìn tỷ đồng, tăng 17,5%. Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Năm ước tính đạt 134,6 triệu tấn, tăng 0,1% so với tháng trước và tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 13 tỷ tấn.km, tăng 0,3% và tăng 11%; doanh thu ước tính đạt 7,6 nghìn tỷ đồng, tăng 0,2% và tăng 14,2%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 661 triệu tấn, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 64,4 tỷ tấn.km, tăng 14,8%; doanh thu đạt 37,6 nghìn tỷ đồng, tăng 16,5%. Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải: Tháng Năm ước tính đạt 7,7 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 12,6% so với cùng kỳ. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, doanh thu đạt 36,7 nghìn tỷ đồng, tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát: Tháng Năm ước tính đạt 1,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 15,6% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, doanh thu đạt 5,4 nghìn tỷ đồng, tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2023. 5.3. Hoạt động du lịch Tổng lượt khách du lịch đến Hà Nội tháng Năm ước đạt 547 nghìn lượt người, giảm 1% so với tháng trước và tăng 42,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, khách du lịch đến Hà Nội ước đạt 2.641 nghìn lượt người, tăng 42,9% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Khách quốc tế tháng Năm ước đạt 392 nghìn lượt người, giảm 1,7% so với tháng trước và tăng 64,3% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, khách quốc tế đạt 1.917 nghìn lượt người, tăng 56,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 223 nghìn lượt người, tăng 26,9%; Trung Quốc 206 nghìn lượt người, gấp 2,2 lần; Mỹ 130,4 nghìn lượt người, tăng 34,2%; Anh 113,6 nghìn lượt người, tăng 59,3%; Pháp 103,8 nghìn lượt người, tăng 76%; Nhật Bản 102,6 nghìn lượt người, tăng 37%; Đức 75,8 nghìn lượt người, tăng 66,5%; Ma-lai-xi-a đạt 50,6 nghìn lượt khách, tăng 16,6%; Canada 41,3 nghìn lượt người, tăng 40,2%; Xin-ga-po 38,8 nghìn lượt người, tăng 7,8%; Thái Lan 34,4 nghìn lượt người, giảm 28,6%. Khách nội địa tháng Năm ước đạt 155 nghìn lượt người, tăng 1% so với tháng trước và tăng 7,4% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, khách trong nước đến Hà Nội đạt 724 nghìn lượt người, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình hoạt động của cơ sở lưu trú và các dịch vụ du lịch khác: Trên địa bàn Thành phố hiện có 3.760 cơ sở lưu trú du lịch với 71,2 nghìn phòng, trong đó 607 khách sạn được xếp hạng từ 1 đến 5 sao với 26,6 nghìn phòng, chiếm 37% tổng số phòng và 16% tổng số cơ sở lưu trú du lịch. Trong tháng Năm, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn từ 1 đến 5 sao ước đạt 64,7%, giảm 1,7% so với tháng trước và tăng 1% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao đạt 63,9%, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm trước. Dịch vụ du lịch đạt chuẩn trên địa bàn Hà Nội hiện có 43 cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, 41 cơ sở kinh doanh dịch vụ mua sắm, 7 cơ sở kinh doanh vui chơi giải trí và 2 cơ sở kinh doanh dịch vụ chăm sóc sức khỏe đã được công nhận đạt chuẩn phục vụ khách du lịch. Hệ thống các cơ sở dịch vụ mua sắm, ăn uống, vui chơi giải trí đạt tiêu chuẩn đã thu hút, đông đảo lượng du khách và người dân đến thăm quan và mua sắm. 5.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Năm ước tính đạt 1.486 triệu USD, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 8,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 866 triệu USD, tăng 1,8% và tăng 7,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 620 triệu USD, tăng 1,8% và tăng 10,2%. Trong tháng, một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 214 triệu USD, tăng 29,4%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 195 triệu USD, tăng 20,6%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 150 triệu USD, tăng 20,8%; hàng nông sản đạt 128 triệu USD, tăng 8,1%; xăng dầu đạt 120 triệu USD, tăng 9,6%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 73 triệu USD, tăng 17,7%; hàng hóa khác đạt 369 triệu USD, tăng 3,5%. Trong tháng Năm cũng có 2 nhóm hàng chủ yếu kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng dệt may đạt 158 triệu USD, giảm 16,8%; giầy dép và sản phẩm từ da đạt 25 triệu USD, giảm 38,5%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước tính đạt 7,16 tỷ USD, tăng 7,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 4,19 tỷ USD, tăng 10,7%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 2,97 tỷ USD, tăng 3,6%. Một số nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 995 triệu USD, tăng 10,3%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 920 triệu USD, tăng 15,7%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 773 triệu USD, tăng 10,9%; hàng nông sản đạt 629 triệu USD, tăng 45,7%; xăng dầu đạt 627 triệu USD, tăng 14,8%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 330 triệu USD, tăng 9%; hàng hóa khác đạt 1,8 tỷ USD, tăng 2,1%. Có 4/12 nhóm hàng chủ yếu kim ngạch xuất khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng dệt may đạt 778 triệu USD, giảm 4,1%; giầy dép và sản phẩm từ da đạt 125 triệu USD, giảm 31,8%; thủy tinh và sản phẩm từ thủy tinh đạt 92 triệu USD, giảm 9,6%; điện thoại và linh kiện đạt 47 triệu USD, giảm 41%. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Năm ước tính đạt 3.451 triệu USD, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 19,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 2.883 triệu USD, tăng 2,7% và tăng 23,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 568 triệu USD, tăng 2,9% và tăng 4,3%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 603 triệu USD, tăng 87,7%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 544 triệu USD, tăng 6,2%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 210 triệu USD, tăng 23%; sắt thép đạt 184 triệu USD, tăng 58,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 179 triệu USD, tăng 14%; kim loại khác đạt 103 triệu USD, tăng 36,8%; chất dẻo đạt 99 triệu USD, tăng 6,7%; vải đạt 88 triệu USD, tăng 5,1%; sản phẩm chất dẻo đạt 64 triệu USD, tăng 6,7%; hàng hóa khác đạt 1.144 triệu USD, tăng 9,6%. Trong tháng, 4/14 nhóm hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ: Hàng điện gia dụng và linh kiện đạt 66 triệu USD, giảm 14,3%; sản phẩm hóa chất đạt 63 triệu USD, giảm 6,6%; thức ăn gia súc đạt 57 triệu USD, giảm 1%; ngô đạt 47 triệu USD, giảm 6,3%. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước tính đạt 15,98 tỷ USD, tăng 11,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 13,35 tỷ USD, tăng 14,2%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đạt 2,63 tỷ USD, giảm 0,7%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn như: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 2.507 triệu USD, tăng 7,7%; xăng dầu đạt 2.502 triệu USD, tăng 23,5%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 969 triệu USD, tăng 8%; sắt thép đạt 846 triệu USD, tăng 32,9%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 807 triệu USD, giảm 0,8%; chất dẻo đạt 490 triệu USD, tăng 4,7%; kim loại khác đạt 483 triệu USD, tăng 25,6%; hàng hóa khác đạt 5.478 triệu USD, tăng 12,2%. 6. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 5/2024 giảm 0,13% so với tháng trước, tăng 0,59% so với tháng 12/2023 và tăng 5,43% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 5 tháng đầu năm nay tăng 5,31% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Trong tháng Năm, 3/11 nhóm hàng có CPI giảm so với tháng trước, trong đó: Nhóm giao thông giảm 1,59% (tác động làm giảm CPI chung 0,16%) do bình quân trong tháng giá xăng giảm 4,65% so với tháng trước; giá dầu diezen giảm 5,07%. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,02% do giá gas giảm 1,43%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,01%. Trong tháng có 6/11 nhóm hàng CPI tăng nhẹ so với tháng trước: Nhóm văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,54% (tác động làm tăng CPI chung 0,03%); nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%; các nhóm: Thuốc, dịch vụ y tế; may mặc, mũ nón, giày dép; đồ uống và thuốc lá cùng tăng 0,02%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,07%. Có 2 nhóm hàng chỉ số CPI tương đương tháng trước là: Hàng ăn, dịch vụ ăn uống và giáo dục. Bình quân 5 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 5,31% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 9/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 32,87% (tác động làm CPI bình quân chung 5 tháng đầu năm tăng 2,6%) do 3 tháng đầu năm các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 5,87% (tác động làm CPI tăng 1,19%) do bình quân 5 tháng giá gas tăng 2,62% so với cùng kỳ; sản lượng tiêu thụ điện, nước tăng dẫn đến giá điện bình quân tăng 9,51%; giá nước tăng 31,08%. Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,27% (tác động làm CPI tăng 1,02%); thuốc và dịch vụ y tế tăng 2,98% (tác động làm CPI tăng 0,15%); giao thông tăng 2,73% (tác động làm CPI tăng 0,27%); đồ uống và thuốc lá tăng 2,63% (tác động làm CPI tăng 0,05%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,88% (tác động làm CPI tăng 0,11%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 7,24% chủ yếu do giá đồ trang sức tăng 25,15% và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 20,82% đã tác động làm CPI bình quân chung tăng 0,26%. Trong 5 tháng đầu năm nay, có 2/11 nhóm hàng CPI bình quân giảm so với bình quân cùng kỳ: Nhóm bưu chính viễn thông giảm 1,44%; thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,33%. Chỉ số giá vàng tháng Năm tăng 3,63% so với tháng trước, tăng 22,19% so với tháng 12/2023 và tăng 33,33% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 5 tháng đầu năm 2024, chỉ số giá vàng tăng 24,87% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Năm tăng 1,36% so với tháng trước, tăng 4,25% so với tháng 12/2023 và tăng 7,72% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 5 tháng đầu năm 2024, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,09% so với bình quân cùng kỳ năm 2023. 7. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán 7.1. Thu, chi ngân sách Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 5 tháng đầu năm 2024 ước thực hiện 227,3 nghìn tỷ đồng, đạt 55,6% dự toán pháp lệnh năm và tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Thu nội địa 215,9 nghìn tỷ đồng, đạt 57% và tăng 12,9%; thu từ dầu thô 1,6 nghìn tỷ đồng, đạt 53,7% và tăng 36,9%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 9,8 nghìn tỷ đồng, đạt 36,3% và tăng 6,1%.Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 5 tháng đầu năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 41,9 nghìn tỷ đồng, đạt 59,4% dự toán năm và tăng 2,4% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 14,9 nghìn tỷ đồng, đạt 55,7% và tăng 15,8%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 48,3 nghìn tỷ đồng, đạt 61,4% và tăng 19,6%; thuế thu nhập cá nhân 23 nghìn tỷ đồng, đạt 56% và tăng 18,6%; thu tiền sử dụng đất 8,9 nghìn tỷ đồng, đạt 24,8% và gấp 3,2 lần; thu lệ phí trước bạ 2,8 nghìn tỷ đồng, đạt 43,4% tăng 3,1%; thu phí và lệ phí 9,6 nghìn tỷ đồng, đạt 49,3% và tăng 30,1%.Chi ngân sách địa phương 5 tháng đầu năm 2024 ước thực hiện 37,2 nghìn tỷ đồng, đạt 25,4% dự toán năm và tăng 20,6% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chi thường xuyên 21,8 nghìn tỷ đồng, đạt 38,1% và tăng 13,6%; chi đầu tư phát triển 15,4 nghìn tỷ đồng, đạt 19% và tăng 32,3%. 7.2. Tín dụng ngân hàng Tình hình thực hiện lãi suất: Tháng Năm, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tiếp tục khuyến khích các Tổ chức tín dụng (TCTD) tiết giảm chi phí, thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay cũ và mới còn dư nợ ở mức 7,5-9,7%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,6%/năm theo quy định của NHNN. Lãi suất tiền gửi tác động theo đó phổ biến ở mức 0,1 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 1,8 - 3,3%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 3 - 5,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 4,1 - 5,7%/năm. Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 5/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố đạt 5.315 nghìn tỷ đồng, tăng 0,15% so với tháng trước và giảm 0,38% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó tiền gửi đạt 4.674 nghìn tỷ đồng, tăng 0,16% và tăng 0,08%; phát hành giấy tờ có giá đạt 641 nghìn tỷ đồng, tăng 0,03% và giảm 3,64%. Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 5/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 3.801 nghìn tỷ đồng, tăng 1,14% so với tháng trước và tăng 5,09% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 1.604 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% và tăng 6,61%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.197 nghìn tỷ đồng, tăng 1,03% và tăng 4,01%. Tính đến cuối tháng 5/2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,9% trong tổng dư nợ. Các TCTD trên địa bàn chú trọng tăng trưởng tín dụng, đưa ra nhiều chương trình, gói tín dụng ưu đãi, áp dụng các chính sách lãi suất linh hoạt. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 15,05% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,9%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,14%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,32%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,36%; cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%. 7.3. Thị trường chứng khoán Tính đến hết tháng Tư năm 2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.193 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 322 doanh nghiệp và Upcom có 871 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 593,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,2% so với tháng trước và tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 159,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,01% và tăng 7,1%; Upcom đạt 434,4 nghìn tỷ đồng, tăng 0,3% và tăng 4,8%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng của tháng Tư đạt 1.556 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% so với tháng trước và tăng 26,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 308 nghìn tỷ đồng, giảm 6% và tăng 18,8%; Upcom đạt 1.248 nghìn tỷ đồng, tăng 3,3% và tăng 28,3%. Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tháng Tư khối lượng giao dịch đạt 1.892 triệu CP được chuyển nhượng, giảm 20,5% so với tháng trước và giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 39,4 nghìn tỷ đồng, giảm 19,8% và tăng 46%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh đạt 1.781 triệu CP, giảm 22,4% và giảm 1,4%; giá trị đạt 36,9 nghìn tỷ đồng, giảm 21,8% và tăng 47,4%. Tính chung 4 tháng đầu năm 2024, khối lượng giao dịch đạt 7,2 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 145 nghìn tỷ đồng, tăng 23,1% về khối lượng và tăng 68,6% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Tư, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 226 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 11 mã giao dịch; cá nhân 215 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 4 tháng đầu năm 2024 đạt 540 nghìn tài khoản. 8. Một số vấn đề xã hội 8.1. Giải quyết việc làm Trong tháng 5/2024, Thành phố hỗ trợ, giải quyết việc làm cho hơn 27 nghìn lao động, giảm 2,6% so với tháng trước và tăng 13,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho các đối tượng nghèo, đối tượng chính sách vay với số tiền 647,1 tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 8,8 nghìn lao động; Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội tổ chức 24 phiên giao dịch việc làm với 632 đơn vị, doanh nghiệp tham gia, kết quả có 1,6 nghìn lao động được tuyển dụng; số lao động được giải quyết việc làm qua hình thức xuất khẩu lao động, cung ứng dịch vụ việc làm của các doanh nghiệp và qua các hình thức khác là 16,6 nghìn lao động. Tính chung 5 tháng đầu năm, toàn Thành phố giải quyết việc làm cho 100,3 nghìn lao động, đạt 60,8% kế hoạch năm, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2023. Cũng trong tháng Năm, Thành phố đã ra quyết định hưởng bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cho 5,6 nghìn người với số tiền được hỗ trợ là 170,5 tỷ đồng; 100% trường hợp đề nghị hưởng BHTN được tư vấn giới thiệu việc làm mới, trong đó hỗ trợ học nghề 260,5 triệu đồng. Tính chung 5 tháng đầu năm, Thành phố đã ra quyết định hưởng BHTN cho gần 25 nghìn người với số tiền được hỗ trợ là 793,7 tỷ đồng; tư vấn giới thiệu việc làm cho người thất nghiệp và hỗ trợ học nghề với số tiền 1,3 tỷ đồng. 8.2. Bảo đảm an sinh xã hội Trong tháng Năm, Thành phố thực hiện tốt việc chăm lo, thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, cán bộ lão thành cách mạng nhân dịp Kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và Ngày Quốc tế Lao động 1/5. Bên cạnh đó Đoàn đại biểu thành phố Hà Nội đã đến dâng hương tại các Nghĩa trang liệt sĩ và di tích lịch sử cách mạng tỉnh Điện Biên nhân kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ. Cũng trong tháng, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 1.172 hồ sơ đề nghị hưởng chế độ ưu đãi đối với người có công và thân nhân người có công. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, Thành phố đã chi cho công tác ưu đãi người có công là 1.012 tỷ đồng, trong đó thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp cho trên 80 nghìn người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 913 tỷ đồng; chi trả trợ cấp một lần là 38 tỷ đồng; chi quà Tết 35 tỷ đồng; chi điều dưỡng người có công 26 tỷ đồng. Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo được Thành phố quan tâm thực hiện, từ đầu năm đến nay đã có 613 ngôi nhà được khởi công xây sửa, đạt 84,6% kế hoạch năm, trong đó 161 nhà xây mới và sửa chữa đã hoàn thành. Tính đến cuối tháng Năm, toàn Thành phố có 203,3 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng với tổng kinh phí chi trả 5 tháng đầu năm 2024 là 771,3 tỷ đồng. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.020 đối tượng bảo trợ xã hội là người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,8 triệu đồng/người/tháng (riêng trẻ em dưới 4 tuổi là 2,2 triệu đồng/tháng) và chi khác 350 nghìn đồng/tháng. 8.3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội Năm 2024, theo kế hoạch Thành phố giao: Tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 94,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 45% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 40% lực lượng lao động. Ước tính đến hết 5 tháng đầu năm 2024, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 94,31% dân số với 8.021 nghìn người tham gia, tăng 0,4% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 3,84% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.092 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 44,33% lực lượng trong độ tuổi lao động), tăng 1,65% và tăng 5,73%; gần 114,3 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,42%), tăng 7,48% và tăng 53,36%. Số người tham gia BHTN là 2.024 nghìn người (chiếm 40,03%), tăng 1,69% và tăng 5,86%. Tính đến cuối tháng 5/2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 26,8 nghìn tỷ đồng, tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 30,6 nghìn tỷ đồng, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng là 17,4 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 9,6 nghìn tỷ đồng). 8.4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề Trong tháng Năm, các Trường tiểu học, Trung học cơ sở (THCS), Trung học phổ thông (THPT) trên địa bàn Thành phố cơ bản hoàn thành xong đánh giá kết quả năm học 2023 - 2024; hoàn thành hồ sơ tuyển sinh vào lớp 10 (THPT) năm học 2024 - 2025 và hồ sơ đăng ký dự thi tốt nghiệp THPT năm 2024. Năm học 2023 - 2024, Hà Nội tiếp tục khẳng định vị trí dẫn đầu cả nước trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế với 12 học sinh đạt giải quốc tế, 184 học sinh đạt giải quốc gia (tăng 43 giải so với năm học trước), 3 học sinh được lựa chọn tham gia đội tuyển Việt Nam tham dự kỳ thi Olympic quốc tế; 3 giải tại kỳ thi Khoa học kỹ thuật quốc gia; 35 học sinh đạt giải quốc gia trong Cuộc thi học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp, hơn 5.000 học sinh giỏi cấp Thành phố; 136 học sinh xuất sắc được kết nạp Đảng. Về giáo dục nghề nghiệp, 5 tháng đầu năm 2024 các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp đã tuyển sinh được 95,2 nghìn người (trong đó 7,6 nghìn người trình độ cao đẳng; 9,1 nghìn người trình độ trung cấp; 78,5 nghìn người trình độ sơ cấp, dưới 3 tháng), đạt 40,5% kế hoạch tuyển sinh năm 2024, tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước, góp phần cung cấp nguồn lao động có trình độ đào tạo cho thị trường lao động trên địa bàn Thành phố và các tỉnh lân cận. 8.5. Tình hình dịch bệnhTheo số liệu của Sở Y tế Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 15/4 đến ngày 14/5/2024 tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau:Bệnh Sốt xuất huyết Dengue có xu hướng giảm so với tháng trước, trong tháng ghi nhận 81 ca mắc; cộng dồn từ đầu năm 2024 đến nay Thành phố ghi nhận 652 ca mắc (cùng kỳ năm 2023 có 236 ca mắc). Bệnh Tay chân miệng có chiều hướng tăng nhanh, trong kỳ báo cáo ghi nhận 617 ca mắc; cộng dồn từ đầu năm đến nay có 1.231 ca mắc (cùng kỳ 550 ca mắc). Bệnh thủy đậu 258 ca mắc; cộng dồn 561 ca mắc (cùng kỳ 1.419 ca mắc). Số ca mắc Covid-19 ghi nhận 30 ca; cộng dồn 5 tháng đầu năm có 636 ca mắc. Ho gà 34 ca mắc; cồng dồn 80 ca mắc. Các bệnh truyền nhiễm khác xuất hiện rải rác không đáng kể, Hà Nội chưa ghi nhận ca mắc đậu mùa khỉ, bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ. Hiện nay, thời tiết đang giao mùa, dự báo trong thời gian tới, các bệnh truyền nhiễm dễ lây lan như Covid-19, cúm, thủy đậu, ho gà, sởi, rubella, adeno vi rút, Tay chân miệng, sốt xuất huyết... có thể có xu hướng gia tăng. Vì vậy các địa phương và cơ sở giáo dục cần làm tốt công tác tổng vệ sinh môi trường, diệt bọ gậy phòng, chống các ổ dịch mới để kiểm soát tốt nguy cơ bùng phát dịch và giảm thiểu số ca mắc.Cũng trong tháng Năm, Hà Nội triển khai “Tháng hành động vì an toàn thực phẩm năm 2024” Thành phố đã đẩy mạnh công tác quản lý an toàn thực phẩm, chủ động phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm, khống chế không để ngộ độc thực phẩm nhất là những nơi đông người gây tử vong góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định an toàn xã hội và nâng cao đời sống người dân.8.6. Hoạt động văn hóa, thể thaoHoạt động văn hóa: Trong tháng Năm, Thành phố tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ, tăng cường tuyên truyền cổ động trực quan Chào mừng kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước; Ngày Quốc tế Lao động 01/5; Kỷ niệm 70 năm Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ; 134 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.Trong tháng Năm, các di tích lịch sử trên địa bàn Thành phố đã tổ chức tiếp đón các cơ quan, đoàn thể và Nhân dân đến dâng hương, tham quan du lịch tất cả các ngày trong tuần với 260 nghìn lượt khách, đạt 14,1 tỷ đồng doanh thu phí. Tính chung 5 tháng đầu năm 2024, các di tích đã đón gần 1,6 triệu lượt khách tham quan, đạt 57,4% kế hoạch năm; doanh thu phí tham quan 84,5 tỷ đồng, hoàn thành 112% kế hoạch năm. Cũng trong tháng, các đơn vị nghệ thuật tổ chức biểu diễn phục vụ nhiệm vụ chính trị, đối ngoại và phục vụ đông đảo các tầng lớp Nhân dân với hơn 200 buổi diễn, thu hút 127,2 nghìn lượt khán giả, doanh thu 3,3 tỷ đồng. Cộng dồn 5 tháng đầu năm, Thành phố đã tổ chức 970 buổi biểu diễn, đạt 43,6% kế hoạch năm; thu hút 339,6 nghìn lượt khán giả, đạt 36,6%; doanh thu 22,8 tỷ đồng, đạt 47,1%.Bên cạnh đó, Bảo tàng Hà Nội duy trì mở cửa đón khách tham quan, bố trí cán bộ thuyết minh hướng dẫn, đón tiếp khách đến tham quan, trong 5 tháng đầu năm 2024 đã đón 49,7 nghìn lượt khách. Thư viện Hà Nội phục vụ bạn đọc tại chỗ, cho mượn về nhà và qua không gian mạng với số lượng trên 1,4 triệu lượt người; phục vụ hơn 3,1 triệu lượt tài liệu; số lượng người cấp mới và đổi thẻ thư viện gần 11,1 nghìn người. Hoạt động thể thao: Trong tháng Năm, Thành phố đã cử các đoàn huấn luận viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế, đồng thời phối hợp tổ chức các giải thi đấu chuyên nghiệp theo kế hoạch. Thể thao thành tích cao Hà Nội 5 tháng đầu năm 2024 đạt được 40 huy chương tại các giải đấu quốc tế (6 huy chương Vàng, 14 huy chương Bạc, 20 huy chương Đồng) và 667 huy chương trong nước (263 huy chương Vàng, 212 huy chương Bạc, 192 huy chương Đồng). Thể thao quần chúng tiếp tục được tổ chức tại các quận, huyện, thị xã với các giải đấu, hội thi thể dục thể thao tạo sân chơi lành mạnh, bổ ích, góp phần nâng cao sức khỏe cho nhân dân tại địa phương và các vùng lân cận. Các hoạt động thể dục thể thao đa dạng, phong phú, phù hợp với mọi lứa tuổi, từ những môn thể thao cổ truyền của dân tộc đến những môn thể thao được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia tập luyện như: Bóng đá, Bóng chuyền, Cầu lông, Võ, Quần vợt, Bóng bàn... 8.7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Năm (từ 15/4/2024 đến 14/5/2024) trên địa bàn Hà Nội như sau: Phạm pháp hình sự: Trong tháng phát hiện hơn 600 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 289 vụ do công an khám phá. Số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 515 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 191 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 222 đối tượng, thu nộp ngân sách 20,7 tỷ đồng. Cộng dồn 5 tháng đầu năm 2024, phát hiện 2.214 vụ phạm pháp hình sự, bắt giữ theo luật 2.181 đối tượng; 1.480 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế, bắt giữ 1.687 đối tượng; thu nộp ngân sách 66,8 tỷ đồng. Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 34 vụ cờ bạc, bắt giữ 156 đối tượng. Tổng số vụ vi phạm pháp luật về ma tuý bị phát hiện là 230 vụ, bắt giữ 384 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 220 vụ với 344 đối tượng. Cộng dồn 5 tháng đầu năm nay, trên địa bàn Thành phố đã phát hiện 282 vụ cờ bạc, bắt giữ 1.452 đối tượng; số vụ vi phạm pháp luật về ma tuý bị phát hiện là 1.629 vụ, bắt giữ 2.460 đối tượng. Tai nạn giao thông: Tháng Năm, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 153 vụ tai nạn giao thông làm 64 người chết và bị thương 158 người. Trong đó, 151 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 62 người chết, 158 người bị thương và 2 vụ tai nạn đường sắt làm 2 người chết. Chia theo mức độ nghiêm trọng, có 72 vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng làm chết 64 người và bị thương 39 người; số vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm có 81 vụ làm 119 người bị thương. Cộng dồn 5 tháng đầu năm 2024, xảy ra 697 vụ tai nạn giao thông, trong đó 686 vụ tai nạn đường bộ và 11 vụ tai nạn đường sắt, làm 300 người chết và 594 người bị thương. Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng phát hiện 723 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 724 đối tượng; xử lý 698 vụ với 702 đối tượng; thu nộp ngân sách hơn 3,3 tỷ đồng. Cũng trong tháng Năm, trên địa bàn Thành phố xảy ra 100 vụ cháy, trong đó có 14 vụ cháy trung bình và 75 vụ cháy nhỏ. Cộng dồn 5 tháng đầu năm, ghi nhận 2.986 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 3.010 đối tượng; 477 vụ cháy làm 6 người chết và 3 người bị thương./.