02438254 239 | hanoi@gso.gov.vn

Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội quý III và 9 tháng năm 2024

07/10/2024 09:01

Kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội 9 tháng năm 2024 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới vẫn có những biến động khó lường; xung đột quân sự Nga và Ucraina diễn biến phức tạp, giao tranh khu vực Trung Đông ngày càng gia tăng, căng thẳng chính trị, bất ổn tại một số quốc gia. Kinh tế toàn cầu năm 2024 theo nhận định của hầu hết các tổ chức quốc tế đều nâng triển vọng tăng trưởng so với dự báo trước đó.

Ở trong nước, tình hình kinh tế quý III/2024 có nhiều tiến triển tích cực, tuy nhiên do chịu tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, mưa lũ lớn hơn so với mức trung bình hàng năm, đặc biệt là cơn bão số 3 (Yagi) với cường độ mạnh, sức tàn phá lớn và hoàn lưu sau bão gây mưa lớn tại 26 tỉnh, thành phố khu vực phía Bắc để lại hậu quả nặng nề về người và tài sản, tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh và đời sống của người dân. Với tinh thần nhanh chóng, kịp thời, hiệu quả, nhiều chính sách của Chính phủ được ban hành nhằm ổn định đời sống nhân dân, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp phục hồi phát triển kinh tế. Phát huy sức mạnh nội tại và sự linh hoạt trong điều tiết chính sách giúp nền kinh tế Việt Nam vẫn giữ được đà tăng trưởng, ổn định và có nhiều điểm sáng. 

Đối với Thủ đô Hà Nội, ngay từ đầu năm, Thành ủy, HĐND, UBND Thành phố đã triển khai quyết liệt các Nghị quyết, kết luận của Trung ương và Thành phố, chỉ đạo các cấp, các ngành và địa phương thực hiện hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, hạ lãi suất, đơn giản các thủ tục vay vốn, kết nối thương mại, kích cầu tiêu dùng; khẩn trương khắc phục hậu quả bão số 3 nhanh chóng ổn định tình hình, kiểm soát tốt giá tiêu dùng, đảm bảo cung cầu, phòng chống dịch bệnh. Nhờ đó, kinh tế Thành phố tiếp tục duy trì tăng trưởng, an sinh xã hội được đảm bảo, kết quả chủ yếu các ngành, lĩnh vực trong quý III và 9 tháng năm 2024 như sau:

I. TÌNH HÌNH KINH TẾ

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) quý III ước tính tăng 6,06% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,66%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,22%; khu vực dịch vụ tăng 6,48%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 3,99%.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Ngay từ những tháng đầu năm, ngành Nông nghiệp đã chú trọng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất, chuyển đổi cơ cấu vật nuôi và giống cây trồng nhằm cung cấp những sản phẩm an toàn chất lượng có giá trị kinh tế cao ra thị trường trong nước và xuất khẩu. Tăng trưởng khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản 6 tháng đầu năm 2024 tăng 3,2% so với cùng kỳ (6 tháng năm 2023 tăng 2,63%). Tuy nhiên trong quý III, ngành nông nghiệp chịu ảnh hưởng do cơn bão số 2, đặc biệt là thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 (Yagi) cùng hoàn lưu sau bão gây mưa lớn kéo dài, ngập lụt diễn ra nghiêm trọng tại một số quận, huyện trên địa bàn Thành phố. Nhiều diện tích lúa vụ Mùa và hoa màu bị hư hại; lồng bè nuôi trồng thủy sản bị hư hỏng cuối trôi; gia súc, gia cầm bị chết. Ước tính giá trị tăng thêm quý III tăng 0,66% so với cùng kỳ năm trước (giảm 1,65 điểm % so với quý trước và giảm 1,61 điểm % so với cùng kỳ năm 2023), đóng góp 0,01 điểm % vào mức tăng GRDP.

Khu vực công nghiệp - xây dựng ước tính quý III năm nay tăng 6,22% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,36 điểm % vào mức tăng GRDP của Thành phố. Ngành công nghiệp trong quý III có nhiều điểm sáng khi số lượng đơn hàng sản xuất trong nước và xuất khẩu nhiều hơn, bên cạnh đó giá xăng dầu và chi phí vận chuyển ổn định đã phần nào giảm bớt gánh nặng cho hoạt động sản xuất công nghiệp. Ước tính giá trị tăng thêm ngành công nghiệp quý III tăng 6,28% so với cùng kỳ, đóng góp 0,86 điểm % vào mức tăng chung (tăng 0,64 điểm % so với quý trước và tăng 1,8 điểm % so với cùng kỳ năm 2023). Ngành xây dựng quý III ước tính tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,49 điểm % vào mức tăng chung.

Khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng khá (6,50%), đóng góp 4,27 điểm % vào mức tăng GRDP quý III, trong đó một số ngành, lĩnh vực tăng khá, đóng góp nhiều vào tăng trưởng chung của Thành phố: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (bao gồm lĩnh vực du lịch, lữ hành) tăng 10,53% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,35 điểm % vào mức tăng chung; quản lý Nhà nước tăng 8,63%, đóng góp 0,12 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 8,0%, đóng góp 0,94 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 7,3%, đóng góp 0,72 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 7,3%, đóng góp 0,23 điểm %; hoạt động chuyên môn khoa học, công nghệ tăng 6,88%, đóng góp 0,41 điểm %; thông tin, truyền thông tăng 6,32%, đóng góp 0,92 điểm %. Các ngành dịch vụ khác tiếp tục duy trì tăng trưởng: Hoạt động làm thuê các công việc trong các hộ gia đình tăng 7,17% so với cùng kỳ năm trước; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 5,81%; kinh doanh bất động sản tăng 3,76%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,47%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 3,46%; vận tải, kho bãi tăng 3,1%; dịch vụ khác tăng 3,74%.

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm quý III ước tính tăng 3,99%, chiếm 0,43 điểm % tăng trưởng GRDP của Thành phố.

Tính chung 9 tháng năm 2024, GRDP của Thành phố ước tính tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2023 tăng 5,99%). Trong bối cảnh tình hình thế giới căng thẳng chính trị leo thang, diễn biến phức tạp; ở trong nước các tỉnh, thành phố phía Bắc chịu thiệt hại nặng nề do cơn bão số 3 gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân và sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, kinh tế Thủ đô đạt mức tăng trưởng trên là rất quan trọng và đáng ghi nhận.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản 9 tháng năm 2024 ước tính tăng 2,47% so với cùng kỳ năm 2023, đóng góp 0,05 điểm % vào mức tăng GRDP (9 tháng năm 2023 tăng 2,53%). Trong 9 tháng năm nay, trên địa bàn Thành phố không xuất hiện dịch bệnh lớn, hoạt động tái đàn tiếp tục phát triển, sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng trong 9 tháng tăng 2,7% so với cùng kỳ năm trước; thịt gia cầm tăng 3,5%. Bên cạnh đó, Thành phố tiếp tục cơ cấu lại ngành trồng trọt theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, gieo cấy lúa chất lượng cao; mở rộng diện tích trồng rau, hoa, cây cảnh; tăng các vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, sản xuất theo quy trình GAP, VietGAP, rau hữu cơ.

Khu vực công nghiệp và xây dựng 9 tháng năm 2024 ước tính tăng 5,74% so cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,15 điểm % vào mức tăng GRDP (9 tháng năm 2023 tăng 4,64%), trong đó: Ngành công nghiệp tăng 5,72%, đóng góp 0,73 điểm % (ngành chế biến chế tạo tăng 5,19%; sản xuất phân phối điện tăng 11,1%; cung cấp nước và xử lý, nước thải tăng 9,69%). Ngành xây dựng 9 tháng năm nay ước tăng 5,78%, đóng góp 0,42 điểm % vào mức tăng chung.

Khu vực dịch vụ 9 tháng năm nay ước tính tăng 6,76% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 4,53 điểm % vào mức tăng GRDP (9 tháng năm 2023 tăng 7,02%), trong đó một số ngành tăng trưởng khá, đóng góp nhiều vào tốc độ tăng chung của nền kinh tế: Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 17,22%, đóng góp 0,61 điểm %; bán buôn, bán lẻ tăng 8,56%, đóng góp 0,87 điểm %; dịch vụ lưu trú, ăn uống tăng 7,55%, đóng góp 0,13 điểm %; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,38%, đóng góp 0,77 điểm %; giáo dục và đào tạo tăng 6,61%, đóng góp 0,23 điểm %; khoa học và công nghệ tăng 6,49%, đóng góp 0,4 điểm %. Các ngành dịch vụ khác tiếp tục duy trì tăng trưởng: Hoạt động làm thuê các công việc trong hộ gia đình tăng 6,54%; quản lý Nhà nước tăng 6,2%; thông tin, truyền thông tăng 5,37%; vận tải, kho bãi tăng 4,83%; nghệ thuật, vui chơi, giải trí tăng 4,52%; kinh doanh bất động sản tăng 3,37%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 3,32%; dịch vụ khác tăng 2,32%.

Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 9 tháng năm 2024 ước tăng 3,54% so với cùng kỳ năm trước, chiếm 0,39 điểm % mức tăng GRDP chung.

Cơ cấu GRDP 9 tháng năm 2024 theo giá hiện hành: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 1,98%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21,23%; khu vực dịch vụ chiếm 66,39%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 10,4% (cơ cấu GRDP 9 tháng năm 2023 tương ứng là: 2,03%; 21,72%; 65,53% và 10,72%).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Trong 9 tháng năm 2024, Ngành Nông nghiệp Thủ đô tích cực đẩy mạnh ứng dụng kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp an toàn, chất lượng, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Tuy nhiên do ảnh hưởng của cơn bão số 2, đặc biệt là cơn bão số 3 Yagi trong quý III/2024 đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn Thành phố.

2.1. Nông nghiệp

Sản xuất vụ Mùa: Tính đến cuối tháng Chín, toàn Thành phố đã gieo cấy được 71,9 nghìn ha lúa vụ Mùa, bằng 99,3% cùng kỳ năm trước (năng suất lúa ước tính đạt 55,3 tạ/ha, bằng 95,1% cùng kỳ năm 2023); 3.231 ha ngô, bằng 99,1%; 213 ha khoai lang, bằng 95%; 288 ha đậu tương, bằng 99%; 539 ha lạc, bằng 97,9%; 9.776 ha rau, bằng 98,7%.

Cây lâu năm: Diện tích cây lâu năm ước đạt 24 nghìn ha, tăng 0,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó diện tích cây ăn quả đạt 20,2 nghìn ha, tăng 0,5%; cây chè 2 nghìn ha, tăng 0,1%; cây gia vị, dược liệu 550 ha, tăng 5%; cây lấy quả chứa dầu 22 ha, giảm 1,3%; cây lâu năm khác 1,5 nghìn ha, tăng 3,2%. Ước tính sản lượng một số cây lâu năm 9 tháng năm 2024: Chuối 54,1 nghìn tấn, giảm 5,6% so với cùng kỳ năm trước; ổi 18 nghìn tấn, giảm 14,2%; táo 9,7 nghìn tấn, tăng 4,6%; dứa 2,4 nghìn tấn, tăng 1%; xoài 2 nghìn tấn giảm 50%; vải 1,2 nghìn tấn giảm 50%; chè búp 13,8 nghìn tấn, giảm 1%.

Chăn nuôi: Chăn nuôi gia súc, gia cầm nhìn chung ổn định. Đàn trâu hiện có 29,5 nghìn con, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 125,1 nghìn con, giảm 2,3%. Chăn nuôi lợn tiếp tục xu hướng tái đàn, trong tháng không xảy ra bệnh Dịch tả lợn châu Phi, giá bán thịt lợn hơi xuất chuồng có xu hướng tăng trong quý III, thuận lợi cho các cơ sở chăn nuôi tái đàn kịp cung cấp nhu cầu thực phẩm cao những tháng cuối năm. Đàn lợn hiện có 1,46 triệu con, giảm 1% so cùng kỳ năm trước; đàn gia cầm 42,4 triệu con, tăng 1,1% (đàn gà 28,4 triệu con, tăng 1,3%). Tính chung 9 tháng năm 2024, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng ước đạt 1,6 nghìn tấn, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 8 nghìn tấn, giảm 0,1%; thịt lợn 193,7 nghìn tấn, tăng 2,7%; thịt gia cầm 125,4 nghìn tấn, tăng 3,5% (thịt gà 94,2 nghìn tấn, tăng 3,7%); trứng gia cầm 2.209 triệu quả, tăng 4,8% (trứng gà 1.080 triệu quả, tăng 4,3%); sản lượng sữa bò tươi đạt 33 nghìn tấn, tăng 1,8%.

2.2. Lâm nghiệp và thủy sản

Lâm nghiệp: Trong tháng Chín, sản lượng gỗ khai thác ước đạt 2,2 nghìn m3, giảm 3% so với cùng kỳ năm 2023; sản lượng củi khai thác đạt 79 ste, tăng 3,9%. Tính chung 9 tháng năm 2024, diện tích rừng trồng mới tập trung đạt 119 ha, giảm 2,5% (trong đó: 116 ha rừng sản xuất giảm 3,3%; 3 ha rừng phòng hộ tăng 50%) so với cùng kỳ năm trước; số cây lâm nghiệp trồng phân tán gần 630 nghìn cây, tăng 0,6%; sản lượng gỗ đạt 16,6 nghìn m3, giảm 4%; sản lượng củi đạt 601 ste, tăng 3,6%. Trong 9 tháng năm nay, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 2 vụ cháy rừng, chủ yếu cháy thực bì dưới tán rừng, gây thiệt hại 2 ha rừng.

Thủy sản: Diện tích nuôi trồng thủy sản 9 tháng năm 2024 ước đạt 23,3 nghìn ha (chủ yếu là diện tích nuôi cá), tăng 2,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong thời gian qua một số địa phương tiếp tục chuyển đổi diện tích trồng cây hàng năm không hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản, phát triển theo hướng bền vững, an toàn, áp dụng kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất, đưa giống cá trắm, chép lai, rô phi đơn tính… có năng suất, chất lượng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

Sản lượng thủy sản tháng Chín ước đạt 11,2 nghìn tấn (chủ yếu là sản lượng cá), tăng 2,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó thủy sản nuôi trồng đạt 11 nghìn tấn, tăng 2,6%; thủy sản khai thác 220 tấn, giảm 0,9%. Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng sản lượng thủy sản ước đạt 92,4 nghìn tấn, tăng 3,4% so với cùng kỳ năm trước, trong đó thủy sản nuôi trồng 91,1 nghìn tấn, tăng 3,4%; thủy sản khai thác 1,3 nghìn tấn, giảm 0,6%.

3. Sản xuất công nghiệp

Sau cơn bão số 3 với tinh thần trách nhiệm cao của nhân dân và sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, thành phố Hà Nội đã giảm thiểu thấp nhất những thiệt hai do cơn bão gây ra, nhanh chóng phục hồi sản xuất. Tính chung 9 tháng năm nay, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,4% so với cùng kỳ, trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,8%; chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 9,9%; chỉ số tồn kho cuối tháng Chín giảm 2,3%.  

Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Chín ước tính giảm 2,7% so với tháng trước và tăng 5,6% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 2,6% và tăng 5,6%; sản xuất và phân phối điện giảm 5,9% và tăng 2,1%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 4,8% và tăng 16,8%; ngành khai khoáng giảm 8,5% và tăng 14,5%. Ước tính quý III/2023, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước (quý I tăng 4,2%; quý II tăng 5,7%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,2%; sản xuất và phân phối điện tăng 4,7%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 11,4%; ngành khai khoáng tăng 9,2%. Một số ngành có chỉ số IIP quý III tăng cao so với cùng kỳ năm trước: Sản xuất máy móc, thiết bị tăng 56,3%; dệt tăng 21%; sản xuất trang phục tăng 14,7%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính tăng 12,3%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 10,5%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: In, sao chụp bản ghi giảm 5,8%; sản xuất thiết bị điện giảm 4,7%; chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 4,6%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 5,4% so với cùng kỳ năm trước (9 tháng năm 2023 tăng 2,5%), trong đó công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,8%; sản xuất và phân phối điện tăng 9,9%; cung cấp nước và xử lý rác, nước thải tăng 10,1%; khai khoáng tăng 0,9%.

Trong 9 tháng năm nay, một số ngành chế biến, chế tạo có chỉ số IIP tăng so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất máy móc thiết bị tăng 26,1%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 12,6%; sản xuất trang phục tăng 9,3%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 8,7%; công nghiệp chế biến chế tạo tăng 8,6%. Bên cạnh đó, một số ngành có chỉ số IIP giảm so với cùng kỳ: Chế biến gỗ và sản xuất sản phẩm từ gỗ giảm 5,6%; sửa chữa, bảo dưỡng và lắp đặt máy móc giảm 1,9%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 1,5%; sản xuất xe có động cơ giảm 0,5%.

Chỉ số tiêu thụ sản phẩm toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tháng Chín tăng 1,1% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm 2024 chỉ số tiêu thụ sản phẩm tăng 9,9% so với cùng kỳ, trong đó một số ngành sản xuất có chỉ số tăng như: Sản phẩm dệt tăng 33,6%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 29,4%; máy móc, thiết bị tăng 22,9%; giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,9%; sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 9,8%; xe có động cơ tăng 9%; trang phục tăng 8%. Một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ như: Chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ giảm 36,3%; da và sản phẩm liên quan giảm 21,4%; kim loại giảm 8,9%; sản phẩm từ kim loại đúc sẵn giảm 8,1%.

Chỉ số tồn kho ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước tính thời điểm 30/9/2024 giảm 2,3% so với cùng thời điểm năm 2023, trong đó một số ngành có chỉ số tồn kho giảm mạnh so với cùng kỳ: Sản xuất dệt giảm 77,3%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic giảm 59,5%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 30,2%; in, sao chép bản ghi giảm 24,5%. Một số ngành công nghiệp có chỉ số tồn kho tăng: Sản xuất sản phẩm thuốc lá tăng 42,7%; sản xuất xe có động cơ tăng 23,5%; sản xuất trang phục tăng 21,9%; sản xuất kim loại tăng 18,8%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 16,3%.

Lao động đang làm việc trong các doanh nghiệp công nghiệp thời điểm cuối tháng Chín ước tính giảm 0,3% so với cuối tháng trước và tăng 0,3% với cùng thời điểm năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 1,1% so với cùng kỳ năm trước, trong đó lao động đang làm việc trong doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước giảm 4,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 0,3%; khu vực Nhà nước tăng 1,6 %. Chia theo ngành kinh tế: Lao động đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo giảm 1,4% so với cùng kỳ năm 2023; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt giảm 0,4%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 1,7%; ngành khai khoáng tăng 21,3%.

4. Đầu tư và xây dựng

4.1. Vốn đầu tư

Trong quý III/2024, Thành phố tiếp tục tập trung chỉ đạo, đôn đốc các chủ đầu tư, các đơn vị thi công tăng cường nguồn lực, đẩy nhanh tiến độ thi công các công trình, dự án trọng điểm. Tính chung 9 tháng năm nay, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn ước tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tăng 34,9%.

Vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố quý III/2024 ước tính đạt 143,9 nghìn tỷ đồng, tăng 18,8% so với thực hiện quý trước và tăng 10,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Vốn Nhà nước đạt 53,9 nghìn tỷ đồng, chiếm 37,4% tổng vốn đầu tư và tăng 23% so với cùng kỳ; vốn ngoài nhà nước đạt 81,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 56,5% và tăng 3,6%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 8,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 6,1% và tăng 12%. Chia theo khoản mục đầu tư: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản quý III ước tính đạt 90,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,1% tổng vốn đầu tư và tăng 12,4% so với cùng kỳ năm 2023; vốn mua sắm tài sản cố định dùng cho sản xuất đạt 36,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 25,6% và tăng 8,2%; vốn sửa chữa lớn, nâng cấp tài sản đạt 8,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,7% và tăng 6,3%; bổ sung vốn lưu động đạt 6,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,5% và tăng 8,6%; vốn đầu tư khác đạt 1,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,1% và tăng 3,4%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Thành phố đạt 351,8 nghìn tỷ đồng, tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn Nhà nước đạt 130,3 nghìn tỷ đồng, tăng 17,8%; vốn ngoài nhà nước đạt 198,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,2%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,7%.

Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) do địa phương quản lý tháng Chín ước tính đạt 7.049 tỷ đồng, giảm 5,1% so với thực hiện tháng trước và tăng 38,4% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính quý III/2024 vốn đầu tư thực hiện đạt 21 nghìn tỷ đồng, tăng 46,3% so với quý II/2024 và tăng 44,9% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Vốn NSNN cấp Thành phố thực hiện 7,8 nghìn tỷ đồng, tăng 40,5% và tăng 49,7%; NSNN cấp huyện thực hiện 12,3 nghìn tỷ đồng, tăng 51,8% và tăng 39,9%; NSNN cấp xã thực hiện 880 tỷ đồng, tăng 28,5% và tăng 84,9%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN do địa phương quản lý đạt 45,3 nghìn tỷ đồng, tăng 34,9% so với cùng kỳ năm 2023 và đạt 54,6% kế hoạch năm, trong đó: NSNN cấp Thành phố thực hiện 17,3 nghìn tỷ đồng, tăng 28,5% và đạt 48%; NSNN cấp huyện thực hiện 26 nghìn tỷ đồng, tăng 37,3% và đạt 59,8%; NSNN cấp xã thực hiện 2 nghìn tỷ đồng, tăng 67,9% và đạt 59,6%.

Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Tháng Chín, thành phố Hà Nội thu hút 67,9 triệu USD vốn FDI, trong đó: 24 dự án được cấp phép mới với tổng vốn đăng ký đạt 12,9 triệu USD; có 23 dự án được điều chỉnh tăng vốn đầu tư với số vốn đăng ký tăng thêm đạt 23,4 triệu USD; nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần 25 lượt, đạt 31,6 triệu USD. Tính chung 9 tháng năm 2024, toàn Thành phố thu hút 1,5 tỷ USD vốn FDI, trong đó: Đăng ký cấp mới 197 dự án với số vốn đạt 1,1 tỷ USD; 143 lượt tăng vốn đầu tư với 220,7 triệu USD; 178 lượt nhà đầu tư nước ngoài góp vốn, mua cổ phần đạt 208,2 triệu USD.

4.2. Hoạt động xây dựng

Sang quý III, cùng với công tác xúc tiến, thu hút đầu tư, Thành phố tiếp tục chỉ đạo, đôn đốc các nhà thầu, các đơn vị thi công tập trung nguồn lực đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các công trình, dự án trọng điểm, phát triển hạ tầng, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội Thủ đô.

Năm 2024 thành phố Hà Nội có 226 dự án đầu tư công xây dựng cơ bản tập trung, trong đó: 155 dự án chuyển tiếp với mức đầu tư 205,5 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn năm 2024 là 24,4 nghìn tỷ đồng); có 71 dự án mới được khởi công xây dựng trong năm với tổng mức đầu tư 7,2 nghìn tỷ đồng (kế hoạch giải ngân vốn trong năm là 1,1 nghìn tỷ đồng). Lĩnh vực giao thông với 58 dự án, chiếm 19,5% kế hoạch vốn. Đến nay các dự án, công trình trọng điểm trên địa bàn Thành phố đang khẩn trương thi công, sớm hoàn thành các hạng mục theo kế hoạch đặt ra.

Tình hình thực hiện một số công trình, dự án trên địa bàn Thành phố:

Dự án đường vành đai 4 - Vùng Thủ đô: Tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô đi qua 3 tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hưng Yên và Bắc Ninh), kết nối cao tốc Hà Nội - Lào Cai và Nội Bài - Hạ Long có chiều dài 112,8 km với tổng mức đầu tư giai đoạn 1 khoảng 85,8 nghìn tỷ đồng. Hiện nay, dự án đang được các địa phương tích cực triển khai bàn giao mặt bằng để thi công toàn bộ dự án đảm bảo tiến độ đã đề ra. Đến thời điểm này, tổng vốn đã đầu tư cho dự án khoảng 12,6 nghìn tỷ đồng, tiến độ thi công xây lắp đạt 10,8%.

Dự án đường Vành đai 1, đoạn Hoàng Cầu - Voi Phục (giai đoạn 1): Dự án có chiều dài 2,3 km, mặt cắt ngang 50 m và hợp phần 2 cầu vượt tại nút giao Láng Hạ - Nguyễn Chí Thanh. Điểm đầu tuyến đường giao với đường Cát Linh - La Thành - Yên Lãng tại Hoàng Cầu (quận Đống Đa) và điểm cuối tại nút giao thông Voi Phục (quận Ba Đình). Mức đầu tư giai đoạn 1 dự án hơn 7,2 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó chi phí xây dựng 627 tỷ đồng, chi phí giải phóng mặt bằng 5,8 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 37,8% kế hoạch vốn.

Dự án cải tạo, nâng cấp Quốc lộ 6 đoạn Ba La - Xuân Mai: Dự án cải tạo 21,7 km, đoạn nút giao Ba La quận Hà Đông đến Thị trấn Xuân Mai huyện Chương Mỹ. Dự án nâng cấp thành 4 - 6 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h, chiều rộng nền đường được mở 50m - 60m góp phần hoàn chỉnh trục đường hướng tâm kết nối Quốc lộ 21A đường Hồ Chí Minh và tuyến đường Vành đai 4 vùng Thủ đô. Tổng vốn đầu tư 8,1 nghìn tỷ đồng từ nguồn ngân sách Thành phố, trong đó trên 5,1 nghìn tỷ đồng giải phóng mặt bằng; 2,9 nghìn tỷ đồng chi phí xây dựng, mua sắm thiết bị. Đến nay dự án đã giải ngân 8,8% kế hoạch vốn.

Dự án tuyến đường cao tốc Đại lộ Thăng Long, đoạn nối từ Quốc lộ 21 đến cao tốc Hà Nội - Hòa Bình: Có chiều dài 6,7 km, điểm đầu kết nối giữa cao tốc Đại lộ Thăng Long với Quốc lộ 21, xã Thạch Hòa, huyện Thạch Thất, điểm cuối kết nối với đường Hòa Lạc - Hòa Bình; mặt cắt ngang từ 120m - 180m. Tổng mức đầu tư toàn dự án 5,2 nghìn tỷ đồng. Đến nay dự án đã giải ngân 8,6% kế hoạch vốn.

Dự án Xây dựng Bệnh viện Nhi Hà Nội - giai đoạn 1: Với tổng mức đầu tư gần 785 tỷ đồng, dự án được xây dựng trên khu đất có tổng diện tích 67,9 nghìn m2 tại phường Yên Nghĩa, quận Hà Đông. Quy mô dự án gồm 1 khối nhà cao 6 tầng có 2 đơn nguyên với năng lực thiết kế 200 giường bệnh nội trú. Dự kiến công trình gắn biển khánh thành vào ngày 08/10/2024 nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ Đô (10/10/1954 - 10/10/2024).

Dự án Cung Thiếu nhi Hà Nội: Dự án được khởi công tháng 3/2021 với tổng mức đầu tư hơn 1,3 nghìn tỷ đồng. Công trình được xây dựng tại Khu công viên và hồ điều hòa CV1 thuộc Khu đô thị mới Cầu Giấy với tổng diện tích 39,6 nghìn m2, trong đó diện tích xây dựng 10,3 nghìn m2. Ngày 21/9/2024 công trình đã khánh thành đi vào hoạt động, đây là một trong các công trình lớn chào mừng kỷ niệm 70 năm Giải phóng Thủ đô.

5. Hoạt động của doanh nghiệp

5.1. Tình hình đăng ký doanh nghiệp

Trong 9 tháng năm 2024, mặc dù Thành phố đã có nhiều chính sách ưu đãi, hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp tuy nhiên nền kinh tế chưa phục hồi rõ nét đã ảnh hưởng đến niềm tin của doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm 7,1% so với cùng kỳ; doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động tăng 18,7%; doanh nghiệp giải thể tăng 19,7%.

Trong tháng Chín, thành phố Hà Nội đã cấp giấy chứng nhận cho 1.153 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 47% so với cùng kỳ năm trước; vốn đăng ký đạt 7,9 nghìn tỷ đồng, giảm 65,2%; 397 doanh nghiệp hoạt động trở lại, giảm 11,7%; 818 doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, giảm 16%; 278 doanh nghiệp giải thể, tăng 6,6%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, Thành phố đã cấp giấy chứng nhận cho 21,8 nghìn doanh nghiệp thành lập mới với vốn đăng ký 199 nghìn tỷ đồng, giảm 7,1% về số lượng doanh nghiệp và giảm 15,4% vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước; 7,6 nghìn doanh nghiệp hoạt động trở lại, tăng 10,6%; 20,1 nghìn doanh nghiệp đăng ký tạm ngừng hoạt động, tăng 18,7%; hơn 3,3 nghìn doanh nghiệp giải thể, tăng 21,1%. Tỷ lệ hồ sơ đăng ký doanh nghiệp qua mạng được duy trì 100%, đảm bảo chất lượng và đúng hạn.

5.2. Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý III/2024 cho thấy: Có 23,5% số doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh quý III/2024 tốt hơn quý II/2024; 50,4% doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 26,1% doanh nghiệp đánh giá gặp khó khăn. Dự báo 3 tháng cuối năm nhu cầu tiêu dùng trong nước tăng cao nên xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý IV là 36,6% số doanh nghiệp dự kiến sẽ tốt lên so với quý III; 43,7% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 19,7% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn. Trong đó: 80% số doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý IV sẽ tốt hơn và giữ ổn định so với quý III; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp FDI lần lượt là 80% và 81,5%.

6. Thương mại, dịch vụ và du lịch

6.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Quý III năm 2024, khu vực dịch vụ tiếp tục là điểm sáng, đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng chung của Thành phố. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý III tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, tính chung 9 tháng tăng 10,5%.

Trong 9 tháng năm nay, thành phố Hà Nội triển khai công tác phát triển thương mại, dịch vụ văn minh, hiện đại; kết nối về thương mại điện tử với chủ đề “Doanh nghiệp Việt trong kỷ nguyên số”; tiếp tục chỉ đạo công tác bình ổn giá cả hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng; tập trung cung cấp hàng hóa, bảo đảm an toàn thực phẩm, đáp ứng nhu cầu của người dân nhất là trong dịp Quốc khánh 2/9/2024; Chỉ đạo kịp thời đảm bảo cân đối cung - cầu hàng hóa; hỗ trợ lương thực, thực phẩm cho nhân dân một số địa phương bị ảnh hưởng của cơn bão số 3 và tình hình mưa, lũ phức tạp sau bão. Công tác liên kết vùng giữa Hà Nội và các tỉnh, thành phố tiếp tục được đặc biệt quan tâm đẩy mạnh và thực sự mang lại rất nhiều kết quả tích cực. Nhiều sự kiện lớn trong và ngoài nước được tổ chức, tham dự đạt hiệu quả cao về kích cầu và quảng bá hình ảnh, sản vật Thủ đô như các hoạt động giao thương đặc sản tỉnh thành phố; Kết nối liên kết với 53 tỉnh, thành phố trong cả nước.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Chín ước tính đạt 73,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,1% so với tháng trước và tăng 11,2% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 45,8 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5% và tăng 9%; doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 10,7 nghìn tỷ đồng, tăng 1,3% và tăng 8,7%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 2,5 nghìn tỷ đồng, tăng 0,9% và tăng 25,8%; doanh thu dịch vụ khác đạt 14,5 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 18,3%.

Ước tính quý III/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng đạt 214,3 nghìn tỷ đồng, tăng 4,2% so với quý trước và tăng 11,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó doanh thu bán lẻ hàng hóa tăng 2,9% và tăng 12%; khách sạn, nhà hàng tăng 16,5% và tăng 10,4%; du lịch lữ hành tăng 7,1% và tăng 29,8%; dịch vụ khác giảm 0,4% và tăng 9,7%.

Tính chung 9 tháng năm 2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt 619,7 nghìn tỷ đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 391,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 63,2% tổng mức và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước (đá quý, kim loại quý tăng 38,6%; lương thực, thực phẩm tăng 13,4%; hàng may mặc tăng 9,8%; ô tô tăng 8,3%; xăng dầu tăng 7,3%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình tăng 6,8%; hàng hóa khác tăng 12,2%). Doanh thu khách sạn, nhà hàng đạt 84,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,6% tổng mức và tăng 11,1% (dịch vụ lưu trú đạt 9,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 1,5% và tăng 32,6%; nhà hàng đạt 74,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1% và tăng 8,9%). Doanh thu du lịch lữ hành đạt 20,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,3% và tăng 41,1%. Doanh thu dịch vụ khác đạt 123,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 19,9% và tăng 6,3% (giáo dục và đào tạo tăng 10,5%; dịch vụ hành chính và dịch vụ hỗ trợ tăng 8,9%; dịch vụ khác tăng 8,6%; kinh doanh bất động sản tăng 8%; y tế tăng 7,5%).

6.2. Vận tải và bưu chính chuyển phát

Hoạt động vận tải trong quý III tiếp tục duy trì tăng trưởng tích cực cả về vận chuyển hành khách và vận tải hàng hóa. Tổng doanh thu hoạt động vận tải và bưu chính chuyển phát quý III tăng 12,2% so với cùng kỳ, tính chung 9 tháng năm nay tăng 12,8%.

Vận tải hành khách: Số lượt hành khách vận chuyển tháng Chín ước đạt 35,3 triệu lượt người, giảm 0,5% so với tháng trước và tăng 9,7% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển ước đạt 1,1 tỷ lượt người.km, giảm 0,4% và tăng 5%; doanh thu ước tính đạt 1,9 nghìn tỷ đồng, giảm 0,4% và tăng 12,6%.

Ước tính quý III, số lượt hành khách vận chuyển đạt 106,7 triệu lượt người, tăng 0,9% so với quý trước và tăng 10,4% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 3,2 tỷ lượt người.km, tăng 1,7% và tăng 6,6%; doanh thu đạt 5,6 nghìn tỷ đồng, tăng 1,6% và tăng 14,2%. Tính chung 9 tháng năm 2024, số lượt hành khách vận chuyển đạt 312,9 triệu lượt người, tăng 12% so với cùng kỳ năm trước; số lượt hành khách luân chuyển đạt 9,3 tỷ lượt người.km, tăng 13,5%; doanh thu đạt 16,5 nghìn tỷ đồng, tăng 16,4%.

Vận tải hàng hóa: Khối lượng hàng hóa vận chuyển tháng Chín ước tính đạt 139,5 triệu tấn, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 13,6% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển ước tính đạt 13,2 tỷ tấn.km, tăng 0,6% và tăng 8,5%; doanh thu ước tính đạt 7,8 nghìn tỷ đồng, tăng 1,5% và tăng 11%.

Ước tính quý III, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 412,1 triệu tấn, tăng 1,9% so với quý trước và tăng 14% so với cùng kỳ năm 2023; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 39,4 tỷ tấn.km, tăng 1,2% và tăng 9,6%; doanh thu đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1,7% và tăng 11,6%. Tính chung 9 tháng năm 2024, khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 1,2 tỷ tấn, tăng 15,1% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 116,8 tỷ tấn.km, tăng 12,6%; doanh thu đạt 68,5 nghìn tỷ đồng, tăng 14,4%.

Doanh thu hoạt động hỗ trợ vận tải tháng Chín ước tính đạt 7,7 nghìn tỷ đồng, giảm 0,2% so với tháng trước và tăng 11,6% so với cùng kỳ. Doanh thu quý III đạt 23,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với quý trước và tăng 11,9% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024, doanh thu đạt 67,6 nghìn tỷ đồng, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước.

Doanh thu dịch vụ bưu chính chuyển phát tháng Chín ước tính đạt 1,1 nghìn tỷ đồng, giảm 0,3% so với tháng trước và tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu quý III đạt 3,4 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với quý trước và tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, doanh thu đạt 9,8 nghìn tỷ đồng, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm trước.

6.3. Du lịch

Ngay từ đầu năm, ngành du lịch Thủ đô đã chú trọng đổi mới, đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch, điểm đến, các sản phẩm du lịch mới trên các kênh truyền thông, truyền hình trong nước và quốc tế. Với thông điệp xuyên suốt “Hà Nội điểm đến an toàn cho du khách” và “Hà Nội đến để yêu” đã tạo sức lan tỏa lớn, thu hút khách đến tham quan, du lịch. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách du lịch đến Hà Nội gần 4,6 triệu lượt người, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước.

Tổng lượng khách du lịch đến Hà Nội quý III/2024 ước đạt 1,5 triệu lượt người, tăng 3,4% so với quý trước và tăng 22,4% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách du lịch đến Hà Nội đạt gần 4,6 triệu lượt người, tăng 31,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó:

Khách quốc tế tháng Chín ước tính đạt 360 nghìn lượt người, tăng 2,6% so với tháng trước và tăng 32% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý III/2024 đạt 1.023 nghìn lượt người, tăng 1,5% so với quý trước và tăng 30,8% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách quốc tế đến Hà Nội đạt 3.156 nghìn lượt người, tăng 41,5% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khách đến từ Hàn Quốc đạt 371,2 nghìn lượt người, tăng 11,9%; Trung Quốc 363,8 nghìn lượt người, tăng 75,1%; Mỹ 201,2 nghìn lượt người, tăng 24,9%; Nhật Bản 191 nghìn lượt người, tăng 27,2%; Anh 169,3 nghìn lượt người, tăng 44,8%; Pháp 144,9 nghìn lượt người, tăng 57,8%; Đức 103,7 nghìn lượt người, tăng 50,4%; Ma-lai-xi-a 81,6 nghìn lượt khách, tăng 15,5%; Xin-ga-po 67,8 nghìn lượt người, tăng 6,6%; Thái Lan 51,4 nghìn lượt người, giảm 23,9%.

Khách du lịch nội địa tháng Chín ước tính đạt 174 nghìn lượt người, tăng 1,8% so với tháng trước và tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước; ước tính quý III/2024 đạt 512 nghìn lượt người, tăng 7,4% so với quý trước và tăng 8,4% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2024, khách nội địa đến Hà Nội đạt 1.405 nghìn lượt người, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm 2023.

Tình hình hoạt động các cơ sở lưu trú: Tính đến cuối tháng Chín, trên địa bàn Hà Nội có 3.761 cơ sở lưu trú du lịch với gần 71,3 nghìn phòng, trong đó có 607 khách sạn được xếp hạng từ 1-5 sao với 26,5 nghìn phòng, chiếm 16,1% tổng số cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn và 36,2% tổng số phòng. Trong tháng Chín, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao ước đạt 64,3%, tăng 0,6% so với tháng trước và tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2023. Tính chung 9 tháng năm nay, công suất sử dụng phòng trung bình khối khách sạn 1-5 sao đạt 62,6% (9T/2021 đạt 21,4%; 9T/2022 đạt 34,1%; 9T/2023 đạt 61%).

6.4. Xuất, nhập khẩu hàng hóa

Trong 9 tháng năm 2024 hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn Thành phố phục hồi ấn tượng với tổng kim ngạch đạt 44,9 tỷ USD, tăng 14,4% so với cùng kỳ, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 14,4 tỷ USD, tăng 16,8%; nhập khẩu đạt 30,5 tỷ USD, tăng 13%.

Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng Chín ước tính đạt 1,9 tỷ USD, giảm 0,8% so với tháng trước và tăng 34,5% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 1,1 tỷ USD, giảm 1,1% và tăng 32%; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 785 triệu USD, giảm 0,4% và tăng 38,1%. Trong tháng, phần lớn các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 318 triệu USD, tăng 79%; hàng dệt may đạt 259 triệu USD, tăng 61,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 259 triệu USD, tăng 92,5%; máy móc, thiết bị và phụ tùng đạt 208 triệu USD, tăng 13,1%; hàng nông sản đạt 112 triệu USD, tăng 12,7%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 70 triệu USD, tăng 10,2%; hàng hóa khác đạt 483 triệu USD, tăng 18,3%. Riêng nhóm hàng xăng dầu đạt 87 triệu USD, giảm 33,8%.

Ước tính quý III kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 5,6 tỷ USD, tăng 21,3% so với quý II và tăng 28,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 14,4 tỷ USD, tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 8,5 tỷ USD, tăng 20,6%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,9 tỷ USD, tăng 11,8%. Các nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng so với cùng kỳ trong 9 tháng năm nay: Máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 2,2 tỷ USD, tăng 25,4%; hàng dệt may đạt 1,8 tỷ USD, tăng 11%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 29,2%; máy móc thiết bị phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 10,4%; hàng nông sản đạt 1,1 tỷ USD, tăng 42,9%; xăng dầu đạt 1 tỷ USD, tăng 2,7%; gỗ và sản phẩm từ gỗ đạt 600 triệu USD, tăng 6,7%; hàng hóa khác đạt 3,6 tỷ USD, tăng 14,7%. Riêng giầy dép và các sản phẩm từ da đạt 270 triệu USD, giảm 8,2%.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa tháng Chín ước tính đạt 3,6 tỷ USD, giảm 0,5% so với tháng trước và tăng 1,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Khu vực kinh tế trong nước đạt 3 tỷ USD, giảm 0,5% và giảm 1,2; khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 608 triệu USD, giảm 0,4% và tăng 18,3%. Một số nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng so với cùng kỳ: Máy móc thiết bị phụ tùng đạt 642 triệu USD, tăng 37,8%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 250 triệu USD, tăng 33,3%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 204 triệu USD, tăng 41,4%; kim loại khác đạt 128 triệu USD, tăng 40,6%; chất dẻo đạt 118 triệu USD, tăng 5%; vải đạt 78 triệu USD, tăng 4,4%; ngô đạt 74 triệu USD, tăng 21,4%; sản phẩm hóa chất đạt 73 triệu USD, tăng 13,4%. Trong tháng Chín, 3/14 nhóm hàng chủ yếu có kim ngạch nhập khẩu giảm so với cùng kỳ: Xăng dầu đạt 293 triệu USD, giảm 39,3%; sắt thép đạt 173 triệu USD, giảm 13,8%; hàng hóa khác đạt 1,4 tỷ USD, giảm 7,6%.

Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý III ước đạt 10,9 tỷ USD, tăng 5,2% so với quý II và tăng 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng năm 2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 30,5 tỷ USD, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 25,4 tỷ USD, tăng 14,1%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 5,1 tỷ USD, tăng 7,5%. Một số nhóm hàng có giá trị nhập khẩu lớn trong 9 tháng năm nay: Máy móc thiết bị, phụ tùng đạt 5,2 tỷ USD, tăng 22,9%; xăng dầu đạt 3,6 tỷ USD, giảm 10,4%; máy vi tính, hàng điện tử và linh kiện đạt 1,9 tỷ USD, tăng 16,2%; phương tiện vận tải và phụ tùng đạt 1,7 tỷ USD, tăng 24,1%; sắt thép đạt 1,5 tỷ USD, tăng 20,8%; kim loại khác đạt 1,1 tỷ USD, tăng 51,5%; chất dẻo đạt 1 tỷ USD, tăng 7,8%; hàng hóa khác đạt 11 tỷ USD, tăng 14,6%.

7. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng Chín tăng 0,66% so với tháng trước, tăng 1,95% so với tháng 12/2023 và tăng 2,01% so với cùng kỳ năm trước. CPI bình quân 9 tháng năm nay tăng 4,88% so với bình quân 9 tháng năm 2023.

Trong tháng Chín, có 9/11 nhóm hàng chỉ số giá tiêu dùng tăng so với tháng trước, trong đó tác động nhiều nhất là nhóm hàng ăn, dịch vụ ăn uống tăng 1,66% làm tăng CPI chung 0,52% do ảnh hưởng của cơn bão số 3 đẩy giá thực phẩm tăng cao 2,04%; giá lương thực tăng 1,11%; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,88%. Nhóm giáo dục tăng 2,44% (tác động làm tăng CPI chung 0,19%) do học sinh các cấp bước vào năm học mới nên nhiều chi phí cho hoạt động giáo dục tăng lên. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 0,88% (tác động làm tăng CPI chung 0,18%) do nhu cầu thuê nhà của học sinh, sinh viên các trường đại học tăng cao nên giá tiền thuê nhà tăng 1,21%, đồng thời giá một số vật liệu xây dựng như xi măng, đá, cát, sỏi tăng nên chỉ số giá nhóm vật liệu bảo dưỡng nhà ở chính tăng 0,87%.

Các nhóm còn lại CPI tăng nhẹ: Đồ uống và thuốc lá tăng 0,16%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 0,1%; thuốc và dịch vụ y tế; may mặc, mũ nón, giày dép; thiết bị và đồ dùng gia đình cùng tăng 0,03%; một số hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,09%. Bên cạnh đó, có 2/11 nhóm hàng CPI giảm so với tháng trước: Nhóm giao thông giảm 2,31% (tác động làm giảm CPI chung 0,23%) do bình quân trong tháng giá xăng giảm 6,81% so với tháng trước, giá dầu diezen giảm 8,42%; nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,19%.

Bình quân quý III/2024, CPI tăng 3,97% so với bình quân quý III/2023, trong đó 9/11 nhóm hàng có CPI tăng: Giáo dục tăng 11,85%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 7,17%; nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,36%; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,31%; văn hóa, giải trí, du lịch tăng 3,13%; đồ uống, thuốc lá tăng 2,15%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,57%; thiết bị, đồ dùng gia đình tăng 0,29%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,17%. Có 2/11 nhóm hàng CPI bình quân quý III năm nay giảm so với bình quân cùng kỳ: Bưu chính viễn thông giảm 1,01%; giao thông giảm 0,87%.

Bình quân 9 tháng năm 2024, CPI tăng 4,88% so với bình quân cùng kỳ năm trước, trong đó 10/11 nhóm hàng CPI bình quân tăng: Nhóm giáo dục tăng 24,62% (tác động làm CPI bình quân chung 9 tháng năm nay tăng 1,95%) do 3 tháng đầu năm 2024 các trường công lập trên địa bàn Hà Nội áp dụng mức thu học phí theo Nghị quyết 03/2023/NQ-HĐND ngày 04/7/2023 của HĐND Thành phố, đồng thời một số trường dân lập, tư thục cũng áp dụng mức tăng thu học phí trong năm học 2023-2024. Nhóm nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng tăng 6,16% (tác động làm CPI tăng 1,25%) do bình quân 9 tháng năm 2024 sản lượng tiêu thụ điện tăng dẫn đến giá điện bình quân tăng 8,27% so với bình quân cùng kỳ; giá nước tăng 30,43%; giá nhà thuê tăng 8,51%. Thuốc và dịch vụ y tế tăng 4,82% (tác động làm CPI tăng 0,25%); Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,3% (tác động làm CPI tăng 1,02%) do 9 tháng năm nay giá lương thực tăng 11,24% (trong đó giá gạo tăng 15,23%); thực phẩm tăng 2,46%; ăn uống ngoài gia đình tăng 2,63%. Nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,48% (tác động làm CPI tăng 0,05%); may mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,79% (tác động làm CPI tăng 0,1%); giao thông tăng 1,49% (tác động làm CPI tăng 0,15%); văn hóa, giải trí, du lịch tăng 1,19% (tác động làm CPI tăng 0,06%); thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,15% (tác động làm CPI tăng 0,01%); hàng hóa và dịch vụ khác tăng 6,75% (tác động làm CPI tăng 0,32%) chủ yếu do giá đồ trang sức tăng 29,64% và dịch vụ bảo hiểm y tế tăng 23,8%. Riêng nhóm bưu chính viễn thông trong 9 tháng năm 2024 giảm 1,27% (tác động làm giảm CPI 0,04%).

Chỉ số giá vàng tháng Chín tăng 1,94% so với tháng trước, tăng 27,47% so với tháng 12/2023 và tăng 38,75% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý III/2024 chỉ số giá vàng tăng 37,11% so với bình quân quý III/2023. Bình quân 9 tháng năm nay, chỉ số giá vàng tăng 29,81% so với bình quân 9 tháng năm trước.

Chỉ số giá đô la Mỹ tháng Chín giảm 1,89% so với tháng trước, tăng 1,74% so với tháng 12/2023 và tăng 2,38% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân quý III/2024 chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,1% so với quý III/2023. Bình quân 9 tháng năm nay, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 5,37% so với bình quân 9 tháng năm trước.

8. Tài chính, ngân hàng và thị trường chứng khoán

Tính chung 9 tháng năm nay, thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước tăng 23,1% so với cùng kỳ năm trước; chi ngân sách địa phương tăng 20,2%; các tổ chức tín dụng tiếp tục điều chỉnh giảm lãi suất nhằm tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng.

8.1. Thu, chi ngân sách

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 9 tháng năm 2024 ước thực hiện 379 nghìn tỷ đồng, đạt 92,8% dự toán pháp lệnh năm và tăng 23,1% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Thu nội địa 355,4 nghìn tỷ đồng, đạt 93,9% và tăng 23,6%; thu từ dầu thô 3,2 nghìn tỷ đồng, đạt 105,4% và tăng 3,8%; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu 19,6 nghìn tỷ đồng, đạt 72,7% và tăng 14,3%.

Một số lĩnh vực thu chủ yếu trong thu nội địa 9 tháng năm 2024: Thu từ khu vực doanh nghiệp Nhà nước thực hiện 59,4 nghìn tỷ đồng, đạt 84,2% dự toán năm và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước; khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 23,1 nghìn tỷ đồng, đạt 86,5% và tăng 18,9%; khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước 73 nghìn tỷ đồng, đạt 92,9% và tăng 26,3%; thuế thu nhập cá nhân 38,3 nghìn tỷ đồng, đạt 93,4% và tăng 25,3%; thu tiền sử dụng đất 32 nghìn tỷ đồng, đạt 88,6% và gấp 5 lần cùng kỳ; thu lệ phí trước bạ 5,3 nghìn tỷ đồng, đạt 81% tăng 12,6%; thu phí và lệ phí 18,3 nghìn tỷ đồng, đạt 94,1% và tăng 27,7%.

Chi ngân sách địa phương 9 tháng năm 2024 ước thực hiện 70,5 nghìn tỷ đồng, đạt 48,1% dự toán năm và tăng 20,2% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó: Chi đầu tư phát triển 31,9 nghìn tỷ đồng, đạt 39,3% và tăng 27,2%; chi thường xuyên 38,5 nghìn tỷ đồng, đạt 67,3% và tăng 15,1%.

Một số lĩnh vực chi chủ yếu trong chi thường xuyên ngân sách địa phương 9 tháng năm 2024: Chi giáo dục, đào tạo và dạy nghề ước thực hiện 14,2 nghìn tỷ đồng, đạt 80,7% dự toán và tăng 24,1% so với cùng kỳ năm trước; chi quản lý hành chính Nhà nước 6,6 nghìn tỷ đồng, đạt 74,5% và tăng 22,1%; chi các hoạt động kinh tế 5,9 nghìn tỷ đồng, đạt 47,7% và giảm 5,2%; chi đảm bảo xã hội 3,6 nghìn tỷ đồng, đạt 69% và tăng 17,9%; chi y tế, dân số và gia đình 2,5 nghìn tỷ đồng, đạt 77% và tăng 2,1%; chi bảo vệ môi trường 1,6 nghìn tỷ đồng, đạt 50,8% và tăng 20,6%.

8.2. Tín dụng ngân hàng

Tình hình thực hiện lãi suất: Trong 9 tháng năm 2024, các Tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn thực hiện nghiêm quy định về lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định, lãi suất huy động tương đối ổn định, mặt bằng lãi suất huy động ở mức thấp. Thời điểm tháng 9/2024 lãi suất tiền gửi bằng VND bình quân của các Ngân hàng thương mại (NHTM) trong nước phổ biến ở mức 0,2 - 0,5%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; 2,4 - 4,2%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng; 4,3 - 5,8%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến dưới 12 tháng; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên ở mức 5,8 - 7%/năm. Lãi suất cho vay bình quân của NHTM trong nước với các khoản vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,9 - 9,3%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số ngành lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao) bình quân khoảng 3,6%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm). Các NHTM trên địa bàn tiếp tục tiết giảm chi phí, thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp trong tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng.

Hoạt động huy động vốn: Ước đến cuối tháng 9/2024, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn Thành phố ước tính đạt 5.611 nghìn tỷ đồng, tăng 0,71% so với cuối tháng trước và tăng 5,16% so với thời điểm kết thúc năm 2023, trong đó tiền gửi đạt 4.961 nghìn tỷ đồng, tăng 0,8% và tăng 6,24%; phát hành giấy tờ có giá đạt 650 nghìn tỷ đồng, tăng 0,04% và giảm 2,43%.

Hoạt động tín dụng: Ước đến cuối tháng 9/2024, tổng dư nợ tín dụng trên địa bàn Thành phố đạt 4.072 nghìn tỷ đồng, tăng 0,78% so với cuối tháng trước và tăng 12,59% so với thời điểm cuối năm 2023, trong đó dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 1.736 nghìn tỷ đồng, tăng 0,47% và tăng 15,38%; dư nợ trung hạn và dài hạn đạt 2.336 nghìn tỷ đồng, tăng 1,01% và tăng 10,59%. Tính đến cuối tháng 9/2024, tỷ lệ nợ xấu của các TCTD chiếm 1,69% trong tổng dư nợ. Tình hình thanh khoản của các TCTD trên địa bàn đảm bảo. Các TCTD tích cực nâng cao năng lực quản lý rủi ro đối với các khoản vay thông qua hệ thống cảnh báo sớm nhằm phát hiện các khoản vay có vấn đề.

Dư nợ cho vay theo chương trình tín dụng trên địa bàn Thành phố: Cho vay theo chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp chiếm 13,97% trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế; cho vay đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 18,9%; chương trình nông nghiệp, nông thôn chiếm 8,93%; cho vay xuất khẩu chiếm 5,14%; cho vay công nghiệp hỗ trợ chiếm 2,32%; cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm 0,35%, cho vay chính sách xã hội chiếm 0,43%.

8.3. Thị trường chứng khoán

Tính đến hết tháng 8/2024, trên cả hai sàn giao dịch chứng khoán (HNX và Upcom) do Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội quản lý có 1.190 doanh nghiệp niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó HNX có 312 doanh nghiệp và Upcom có 878 doanh nghiệp. Giá trị niêm yết trên cả hai sàn đạt 603,1 nghìn tỷ đồng, tăng 0,3% so với tháng trước và tăng 4,9% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 156,9 nghìn tỷ đồng, tăng 0,1% và tăng 5,1%; Upcom đạt 446,2 nghìn tỷ đồng, tăng 0,4% và tăng 4,9%. Giá trị vốn hóa toàn thị trường tại thời điểm đóng cửa phiên giao dịch cuối cùng của tháng Tám đạt 1.799 nghìn tỷ đồng, giảm 1,1% so với tháng trước và tăng 28,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó HNX đạt 332 nghìn tỷ đồng, tăng 1,4% và tăng 8,4%; Upcom đạt 1.467 nghìn tỷ đồng, giảm 1,6% và tăng 34,3%.

Thị trường cổ phiếu niêm yết (HNX): Tháng Tám, khối lượng giao dịch đạt 1.338 triệu CP được chuyển nhượng, giảm 2,3% so với tháng trước và giảm 53,2% so với cùng kỳ năm trước; giá trị giao dịch đạt 26,7 nghìn tỷ đồng, giảm 8,7% và giảm 47,1%. Trong đó, giao dịch khớp lệnh đạt 1.216 triệu CP, giảm 2,3% và giảm 55,3%; giá trị đạt 23,5 nghìn tỷ đồng, giảm 7,9% và giảm 50,6%. Tính chung 8 tháng năm 2024, khối lượng giao dịch đạt 13,7 tỷ CP với giá trị chuyển nhượng đạt 276,5 nghìn tỷ đồng, giảm 13,3% về khối lượng và tăng 12,1% về giá trị so với cùng kỳ năm trước.

Hoạt động cấp mã giao dịch và số tài khoản của các nhà đầu tư (NĐT): Tháng Tám, Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam đã cấp mới được 297 mã số giao dịch cho các NĐT nước ngoài (tổ chức 25 mã giao dịch; cá nhân 272 mã giao dịch). Số tài khoản giao dịch của các NĐT được cấp mới 8 tháng năm 2024 đạt 1.114 nghìn tài khoản.

II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ XÃ HỘI

1. Giải quyết việc làm

Trong 9 tháng năm 2024, tình hình kinh tế - xã hội ổn định, các doanh nghiệp tích cực tuyển dụng lao động nhằm phục vụ cho việc sản xuất đơn hàng mới, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đưa các dự án trọng điểm đi vào hoạt động, từ đó thúc đẩy sự phục hồi của thị trường lao động. Tính chung 9 tháng năm nay, Thành phố đã giải quyết việc làm cho 178,8 nghìn lao động, vượt 8,3% kế hoạch cả năm, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2023.

Trong tháng Chín, Thành phố giải quyết việc làm cho 14,7 nghìn lao động; tiếp nhận, thẩm định và ra quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp 8,5 nghìn trường hợp với số tiền hỗ trợ 270 tỷ đồng. Tính chung 9 tháng năm nay, toàn Thành phố giải quyết việc làm cho 178,8 nghìn lao động, đạt 108,3% kế hoạch cả năm, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm 2023, trong đó Thành phố ủy thác qua Ngân hàng Chính sách Xã hội cho đối tượng nghèo, đối tượng chính sách xã hội vay với tổng số tiền là 3,4 nghìn tỷ đồng, giúp tạo việc làm cho 47,3 nghìn lao động; Trung tâm Dịch vụ việc làm Hà Nội đã tổ chức thành công 193 phiên giao dịch việc làm với 5,7 nghìn đơn vị và doanh nghiệp tham gia, sau khi kết thúc phiên giao dịch có 13,6 nghìn người được tuyển dụng; gần 3,4 nghìn người được giải quyết đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài theo hợp đồng tại thị trường Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc; 114,5 nghìn người tự tạo việc làm qua tư vấn, giới thiệu việc làm của các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ việc làm trên địa bàn Thành phố. Cũng trong 9 tháng năm 2024, Thành phố ra quyết định hưởng trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 58,9 nghìn người với số tiền hỗ trợ 1.798 tỷ đồng; hỗ trợ học nghề cho 842 người với số tiền gần 3,4 tỷ đồng.

2. Bảo đảm an sinh xã hội

Công tác bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội được Thành phố và các cấp, các ngành quan tâm thực hiện. Hoạt động thăm hỏi, tặng quà và hỗ trợ người dân gặp hoàn cảnh khó khăn sau cơn bão số 3 được thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng.

Ảnh hưởng siêu bão Yagi (cơn bão số 3): Ngày 07/9/2024 thành phố Hà Nội chịu ảnh hưởng trực tiếp khi nằm gần tâm bão với sức gió mạnh cấp 7, giật cấp 9, có mưa to đến rất to, lượng mưa từ phổ biến 80-150mm, có nơi 200mm. Sau khi bão tan, lũ từ thượng nguồn đổ về gây ra ngập lụt diện rộng trên địa bàn Thành phố, một số địa điểm của huyện Chương Mỹ, Mỹ Đức, Quốc Oai bị ngập úng sâu. Theo đánh giá ban đầu cập nhật tình hình thiệt hại đến thời điểm 7h ngày 25/9/2024 của Ban Chỉ huy Phòng, chống thiên tai và tìm kiếm cứu nạn thành phố Hà Nội, cơn bão số 3 đã gây thiệt hại:

Về người: Mưa to, gió lớn, cây đổ gãy, mái tôn rơi làm chết 4 người và 28 người bị thương. Để đảm bảo an toàn cho người dân, chính quyền các cấp đã chỉ đạo di dời trên 19,7 nghìn hộ dân với hơn 85 nghìn người đến nơi tránh trú an toàn.

Về hạ tầng kỹ thuật: Trên địa bàn Thành phố ghi nhận hơn 105,5 nghìn cây xanh đô thị gẫy đổ, bật gốc; 192 nghìn mét đường giao thông nội đồng, 74 nghìn mét đường giao thông nông thôn bị ngập; 5,5 nghìn mét đường giao thông khu vực nông thôn bị sạt lở; 1,3 nghìn cột điện bị gẫy đổ, trên 720 sự cố điện và một số cột đèn chiếu sáng, trạm biến áp bị hỏng gây mất điện tại nhiều địa phương.

Về thủy lợi đê điều: Trên 21 nghìn mét kênh mương và 126 cống, đập bị hư hỏng, 47 nghìn mét bờ đê, kênh bị tràn, trên 8,7 nghìn mét đê bị sạt lở.

Về hạ tầng công cộng: Có 64 điểm dân cư, 34 di tích, đình chùa, 75 trường học, 156 công trình là công sở, trạm y tế, nhà văn hóa bị ngập, 834 điểm bị sạt lở đất.

Về hạ tầng dân cư: Mưa bão làm ngập trên 7,4 nghìn hộ dân (từ 0,2 đến 2m), sập đổ 478 ngôi nhà, 4.134 ngôi nhà bị hư hại, tốc mái, hơn 108 nghìn m2 chuồng trại bị sập đổ, trên 39 nghìn m2 tường bao bị đổ.

Về sản xuất nông nghiệp: Một số quận và khu vực ngoại thành, mưa lớn kèm gió to làm trên 6,6 nghìn ha lúa bị thiệt hại; 4,6 nghìn ha diện tích lúa bị hư hại; hơn 2,3 nghìn ha rau màu bị hỏng; hơn 9 nghìn ha cây ăn quả; 320 ha cây trồng khác và 545 ha diện tích rừng bị ảnh hưởng; hơn 4,2 nghìn ha thủy sản bị ngập; trên 2,8 nghìn con gia súc bị chết; hơn 462 nghìn gia cầm bị chết hoặc thất lạc; 1,8 tấn ếch bị mất.

Thiệt hại khác: Mưa bão và hoàn lưu của cơn bão số 3 đã làm 283 ô tô và 1.588 xe máy bị hỏng do cây đổ hoặc ngập nước, 4 tàu nhỏ bị đắm, trên 360 biển quảng cáo bị rơi.

Hiện tại các cơ quan chức năng đang tập trung lực lượng khắc phục sự cố sau bão và đánh giá thiệt hại do cơn bão gây ra và động viên, thăm hỏi các gia đình có người thân không may bị chết và bị thương do bão số 3 và khôi phục công việc sản xuất kinh doanh. Trước, trong và sau bão, Thành phố đã huy động toàn bộ hệ thống chính trị đoàn kết chủ động ứng phó và khắc phục hậu quả cơn bão để giảm thiệt hại về người và tài sản ở mức thấp nhất, khắc phục các sự số để ổn định cuộc sống của người dân.

 Ủy ban Mặt trận tổ quốc (MTTQ) Việt Nam Thành phố đã triển khai đến MTTQ Việt Nam các cấp và Ban công tác Mặt trận ở khu dân cư tiếp tục thực hiện các chỉ đạo của Trung ương và Thành phố về công tác ứng phó và khắc phục hậu quả của cơn bão số 3. Ban Thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam Thành phố đã ban hành Lời kêu gọi, Kế hoạch vận động Nhân dân Thủ đô ủng hộ các tỉnh bị thiệt hại do bão lũ, công văn tuyên truyền, vận động Nhân dân thực hiện khắc phục hậu quả cơn bão số 3 và đã triển khai đến MTTQ Việt Nam các cấp, các tổ chức thành viên và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp, Nhân dân trên địa bàn Thành phố.

 Bảo đảm an sinh xã hội: Trong quý III/2024, theo báo cáo của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hà Nội, Thành phố thực hiện tốt việc chăm lo, thăm hỏi, tặng quà các đối tượng chính sách, cán bộ lão thành cách mạng nhân dịp Kỷ niệm 79 năm Ngày Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, nhân dịp này Thành phố Hà Nội tặng gần 2,9 nghìn suất quà tương đương 6,1 tỷ đồng đến các đối tượng chính sách theo quy định. Tính chung 9 tháng năm 2024, Thành phố đã tiếp nhận và giải quyết 8,2 nghìn hồ sơ hưởng chế độ người có công và thân nhân người có công. Tổng kinh phí chi cho công tác ưu đãi người có công là 1.930 tỷ đồng, trong đó thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời trợ cấp gần 79 nghìn người có công và thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp ưu đãi hàng tháng với số tiền 1.633 tỷ đồng; chi trả trợ cấp một lần là 155 tỷ đồng; chi quà Lễ, Tết 71 tỷ đồng; chi điều dưỡng người có công 70,5 tỷ đồng.

 Đến nay, toàn Thành phố đã xây dựng, ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa được trên 33,7 tỷ đồng, đạt 147,6% kế hoạch năm; tặng 1.734 sổ tiết kiệm “Tình nghĩa” với kinh phí 5,4 tỷ đồng, đạt 139,3%; tu sửa nâng cấp 53 công trình ghi công liệt sĩ với kinh phí 157,3 tỷ đồng, đạt 171%; vận động xã hội hóa cho việc tu sửa nâng cấp 159 nhà ở cho hộ gia đình người có công với cách mạng, kinh phí 6,5 tỷ đồng, đạt 119,5%; các Mẹ Việt Nam anh hùng trên địa bàn Thành phố được chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo. Bên cạnh đó, công tác giảm nghèo cũng được Thành phố quan tâm thực hiện, từ đầu năm đến nay đã có 714 ngôi nhà được khởi công xây dựng, sửa chữa, đạt 100% kế hoạch năm, trong đó đã hoàn thành xây mới, sửa chữa 674 nhà, đạt 94,4%. Tính đến cuối tháng Chín, toàn Thành phố có 203 nghìn đối tượng đang hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng với tổng kinh phí chi trả 9 tháng năm 2024 là 1.326 tỷ đồng. Thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng 3.016 đối tượng bảo trợ xã hội là người cao tuổi cô đơn, người khuyết tật, trẻ em bị mất nguồn nuôi dưỡng và các đối tượng bảo trợ xã hội khác tại các cơ sở trợ giúp xã hội của Thành phố với mức trợ cấp nuôi dưỡng thấp nhất là 1,8 triệu đồng/người/tháng (riêng trẻ em dưới 4 tuổi là 2,2 triệu đồng/tháng) và chi khác 350 nghìn đồng/tháng.

3. Bảo hiểm y tế và Bảo hiểm xã hội

Chính sách Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế 9 tháng năm 2024 tiếp tục được Thành phố tổ chức thực hiện hiệu quả; tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm xã hội ngày càng được mở rộng.

 Theo kế hoạch Thành phố giao năm 2024, tỷ lệ bao phủ Bảo hiểm y tế (BHYT) đạt 94,5% dân số. Tỷ lệ tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc đạt 45% số người trong độ tuổi lao động; số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 2,5%. Số người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) đạt 40% lực lượng lao động.

Tính đến hết tháng 9/2024 theo Báo cáo của Bảo hiểm xã hội thành phố Hà Nội, tỷ lệ bao phủ BHYT của Thành phố đạt 94,4% dân số với 8.019 nghìn người tham gia, tăng 1% so với thời điểm 31/12/2023 và tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Có 2.118 nghìn người tham gia BHXH bắt buộc (chiếm 45% lực lượng trong độ tuổi lao động), tăng 2,9% và tăng 5,3%; gần 96,5 nghìn người tham gia BHXH tự nguyện (chiếm 2,5%), tăng 17,4% và tăng 23,1%. Số người tham gia BHTN là 2.050 nghìn người (chiếm 43%), tăng 3% và tăng 5,4%.

Tính đến cuối tháng 9/2024, tổng số tiền thu từ BHXH, BHYT, BHTN là 50 nghìn tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước. Tổng chi BHXH, BHYT, BHTN là 55,9 nghìn tỷ đồng, tăng 13% so với cùng kỳ năm 2023 (trong đó chi lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng là 33,6 nghìn tỷ đồng; chi khám chữa bệnh BHYT 18,3 nghìn tỷ đồng).

4. Giáo dục, đào tạo và dạy nghề

Tháng Chín, ngành Giáo dục và Đào tạo Hà Nội cùng hơn 2,2 triệu học sinh trên địa bàn Thành phố Khai giảng năm học mới. Quyết tâm thực hiện tốt chủ đề năm học: “Kỷ cương, trách nhiệm, đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”

Trong quý III/2024, Thành phố đã hoàn thành công tác tuyển sinh đầu các cấp năm học 2024 - 2025, kết quả: Tuyển sinh trực tuyến lớp 1 với 120,2 nghìn lượt hồ sơ, đạt 90,9% đăng ký thành công; lớp 6 với 130,8 nghìn hồ sơ, đạt 90,1%; lớp 10 với 131,8 nghìn học sinh, đạt 88,7% chỉ tiêu kế hoạch. Ngày 5/9/2024, Ngành giáo dục Thủ đô cùng cả nước khai giảng năm học mới 2024-2025.Trong năm học này, Thành phố đã chuẩn bị tốt các điều kiện về chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, mua sắm bổ sung tài sản, thiết bị dạy học cho các trường, trong đó đặc biệt ưu tiên các trường thành lập mới, các trường xây dựng mới và các trường công nhận lại chuẩn quốc gia. Trong năm học này, toàn Thành phố có 2.913 trường mầm non, phổ thông các cấp (tăng 39 trường so với năm học trước), 01 trường Bồi dưỡng cán bộ giáo dục và 29 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên với 70,2 nghìn lớp học; năm học này có 2.238 nghìn học sinh (tăng khoảng 48 nghìn học sinh so với năm học trước) và 130 nghìn giáo viên. Tính đến giữa tháng Chín, tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia toàn Thành phố đạt 64,5%, trong đó mầm non 55,5%; tiểu học 72,8%; trung học cơ sở 81%; trung học phổ thông 37,1%.

Trong 9 tháng năm nay, chất lượng giáo dục, đào tạo Hà Nội luôn được giữ vững. Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia năm 2024 đoàn Hà Nội đạt 184 giải (14 giải nhất, 61 giải nhì, 54 giải ba và 55 giải khuyến khích); kỳ thi Khoa học kỹ thuật cấp quốc gia, đoàn Hà Nội đạt 03 giải (2 giải nhất, 1 giải ba); kỳ thi Thiên văn và Vật lý Thiên văn quốc tế lần thứ 17 tại Brazil giành 5 huy chương (2 huy chương bạc và 3 huy chương đồng); kỳ thi Olympic Sinh học Quốc tế (IBO) lần thứ 35 Hà Nội có 1 học sinh xuất sắc giành Huy chương Vàng và tại kỳ thi Olympic Hóa học quốc tế năm 2024, Hà Nội cũng giành 1 Huy chương Vàng. Bên cạnh đó, Hà Nội có 7 dự án của học sinh tham gia cuộc thi "Học sinh, sinh viên với ý tưởng khởi nghiệp'' lần thứ VI, tất cả đã xuất sắc vượt qua hơn 700 dự án của các tác giả, nhóm tác giả trên toàn quốc với 2 dự án đạt giải Nhất, 2 dự án giải Nhì và 3 dự án giải Ba.

Về giáo dục nghề nghiệp, hiện nay trên địa bàn Thành phố có 313 cơ sở giáo dục nghề nghiệp và cơ sở đăng ký hoạt động giáo dục nghề, trong đó: 66 trường cao đẳng, 59 trường trung cấp, 38 trung tâm giáo dục nghề nghiệp, 18 trung tâm giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên và 132 doanh nghiệp, loại hình khác. Tính chung 9 tháng năm 2024, các cơ sở có hoạt động giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn Thành phố đã tuyển sinh, đào tạo nghề cho 206,8 nghìn lượt người (trong đó 28,7 nghìn người trình độ cao đẳng; 26,3 nghìn người trình độ trung cấp; 151,8 nghìn người trình độ sơ cấp và dưới 3 tháng), đạt 88% kế hoạch tuyển sinh năm 2024, tăng 2,1% so với cùng kỳ năm 2023.

 5. Tình hình dịch bệnh

Sau khi bão số 3 (Yagi) đi qua, ô nhiễm môi trường kéo theo nguy cơ bùng phát các bệnh thường gặp như: Tiêu hóa, da liễu, sốt xuất huyết, đau mắt... Ngành Y tế Thủ đô đã chủ động về nhân lực, trang thiết bị, thuốc, vật tư, sẵn sàng công tác đáp ứng y tế, phòng, chống dịch bệnh. Nhìn chung trong 9 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố không xảy ra dịch bệnh lớn.

Theo báo cáo của Sở Y tế Hà Nội, trong khoảng thời gian từ ngày 15/8 đến ngày 14/9/2024 tình hình các dịch bệnh truyền nhiễm trên địa bàn Thành phố cơ bản được kiểm soát tốt, cụ thể như sau: Bệnh Sốt xuất huyết Dengue có xu hướng tăng, trong tháng ghi nhận 1.108 ca mắc, tăng 425 ca so với tháng trước; cộng dồn từ đầu năm 2024 đến nay Thành phố ghi nhận 2.966 ca mắc (cùng kỳ năm 2023 có 10.372 ca mắc, 3 ca tử vong). Bệnh Tay chân miệng ghi nhận 165 ca mắc, tăng 27 ca; cộng dồn từ đầu năm có 1.961 ca mắc (cùng kỳ 1.518 ca mắc). Số ca mắc Covid-19 ghi nhận 83 người, cộng dồn 1.205 ca mắc (cùng kỳ 19,6 nghìn ca). Ho gà 12 ca mắc, cộng dồn 228 ca mắc (cùng kỳ không có ca mắc). Bệnh thủy đậu 64 ca mắc; cộng dồn 748 ca mắc (cùng kỳ 1.990 ca mắc). Liên cầu lợn 1 ca mắc, cộng dồn 8 ca mắc, 1 tử vong (cùng kỳ 15 ca mắc, 2 tử vong). Uốn ván 1 ca mắc, cộng dồn 13 ca mắc, 1 tử vong (cùng kỳ 21 ca mắc, 2 tử vong). Các bệnh truyền nhiễm khác xuất hiện rải rác không đáng kể, Hà Nội chưa ghi nhận ca mắc đậu mùa khỉ, bệnh viêm gan cấp tính không rõ nguyên nhân ở trẻ.

Cũng theo báo cáo, tình hình dịch bệnh trong khu vực ngập lụt do ảnh hưởng của bão số 3 có 508 người mắc bệnh về da, 42 người mắc bệnh tiêu hóa, 117 người mắc bệnh về mắt, 01 ca mắc sốt xuất huyết. Ngay khi cơn bão qua, các Trung tâm y tế đã chủ động cấp phát thuốc phòng bệnh gồm thuốc kháng sinh đường ruột, thuốc bôi ngoài da, men tiêu hóa, thuốc nhỏ mắt cho người dân tại các điểm ngập úng. Đồng thời cấp phát thuốc, hóa chất khử trùng với 5.450 kg Cloramin B, 620 kg vôi bột, 30,4 kg phèn chua phục vụ cho công tác xử lý nước, môi trường. Đến nay, Ngành Y tế tiếp tục triển khai các hoạt động tổng vệ sinh môi trường khi nước rút, theo phương châm "nước rút đến đâu làm vệ sinh môi trường đến đó", tổ chức thu gom xử lý xác động vật phát sinh các bệnh truyền nhiễm, phun hóa chất diệt côn trùng truyền bệnh tại các khu vực có nguy cơ cao.

Cũng trong 9 tháng năm nay, Hà Nội đẩy mạnh công tác quản lý an toàn thực phẩm, kiểm soát thị trường, đấu tranh chống buôn bán hàng nhập lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng không rõ nguồn gốc, vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, chủ động phòng chống ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền nhiễm qua thực phẩm, khống chế không để ngộ độc thực phẩm nhất là những nơi đông người gây tử vong góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định an toàn xã hội và nâng cao đời sống người dân.

 6. Hoạt động văn hóa, thể thao

Trong 9 tháng năm 2024, hoạt động văn hóa nghệ thuật, lễ hội, vui chơi, giải trí diễn ra sôi động. Tại các di tích lịch sử thu hút lượng lớn khách đến tham quan với hơn 2,5 triệu lượt người, hoàn thành kế hoạch cả năm. Hoạt động thể thao tiếp tục được quan tâm thực hiện, mang về nhiều huy chương tại các giải đấu chuyên nghiệp trong nước và quốc tế.

Hoạt động văn hóa: Trong 9 tháng năm 2024, Thành phố tổ chức thành công nhiều hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị quan trọng của Thủ đô và đất nước, trong đó đã thực hiện 7 cuộc trưng bày sách, báo lớn: Kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam với chủ đề “Đảng với mùa xuân đất nước”; Hội nghị tọa đàm “Xây dựng hệ giá trị gia đình Thủ đô và chuẩn mực người Hà Nội thanh lịch, văn minh - Thực trạng và giải pháp”; “Đảng với mùa xuân đất nước” kỷ niệm 94 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và mừng Xuân Giáp Thìn; chuyên đề hưởng ứng ngày Quốc tế hạnh phúc chủ đề “Hạnh phúc cho mọi người”; kỷ niệm 49 năm Ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước và 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ; chuyên đề “Hồ Chí Minh - Trọn cuộc đời vì nước vì dân” kỷ niệm 134 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh; kỷ niệm 79 năm Cách mạng tháng Tám thành công và Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bên cạnh đó tổ chức 12 phòng đọc chuyên đề kỷ niệm các ngày Lễ, sự kiện của đất nước và tổ chức thành công 12 cuộc triển lãm lớn phục vụ các nhiệm vụ chính trị của đất nước.

Cũng trong 9 tháng năm 2024, các di tích trên địa bàn Thành phố đã đón hơn 2,5 triệu lượt khách tham quan; doanh thu phí đạt 138,5 tỷ đồng, vượt 82% kế hoạch năm (9 tháng năm 2023 đón 2,5 triệu lượt khách, thu ngân sách 68 tỷ đồng). Các đơn vị nghệ thuật đã tổ chức 1,7 nghìn buổi biểu diễn, đạt 75% kế hoạch; thu hút 634,8 nghìn lượt khán giả, đạt 75,3%; doanh thu 39,9 tỷ đồng, đạt 82,3% (9 tháng năm 2023, tổ chức 1,4 nghìn buổi biểu diễn, thu ngân sách 28,3 tỷ đồng).

Hoạt động thể thao: Trong tháng Chín, Thành phố tiếp tục cử các đoàn huấn luyện viên, vận động viên đi tập huấn, thi đấu các giải đấu trong nước và quốc tế, đồng thời phối hợp tổ chức các giải thi đấu chuyên nghiệp theo kế hoạch. Tính chung 9 tháng năm 2024, thể thao thành tích cao Hà Nội đạt được 2.556 huy chương, trong đó: 195 huy chương tại các giải đấu quốc tế (80 huy chương Vàng, 56 huy chương Bạc, 59 huy chương Đồng); 2.361 huy chương tại các giải đấu trong nước (882 huy chương Vàng, 716 huy chương Bạc, 763 huy chương Đồng).

7. Trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ

Theo số liệu tổng hợp từ Công an thành phố Hà Nội, tình hình trật tự an toàn xã hội, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ tháng Chín (từ 15/8/2024 đến 14/9/2024) trên địa bàn Hà Nội như sau:

 Phạm pháp hình sự: Trong tháng đã phát hiện 638 vụ phạm pháp hình sự, trong đó có 325 vụ do công an khám phá được. Số đối tượng vi phạm bị bắt giữ theo luật là 624 đối tượng. Phát hiện, bắt giữ 209 vụ vi phạm pháp luật về kinh tế với 231 đối tượng, thu nộp ngân sách 15 tỷ đồng.

Tệ nạn xã hội: Trong tháng đã phát hiện 38 vụ cờ bạc, bắt giữ 157 đối tượng. Tổng số vụ vi phạm pháp luật về ma túy bị phát hiện là 201 vụ, bắt giữ 319 đối tượng, trong đó xử lý hình sự 197 vụ với 292 đối tượng.

Tai nạn giao thông: Trong tháng, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 112 vụ tai nạn giao thông làm 55 người chết và 88 người bị thương. Trong đó: 109 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 53 người chết và 87 người bị thương; 3 vụ tai nạn đường sắt làm 2 người chết và 1 người bị thương. Chia theo mức độ nghiêm trọng, trong các vụ tai nạn có 63 vụ nghiêm trọng làm 55 người chết và 23 người bị thương; 49 vụ tai nạn ít nghiêm trọng và va chạm làm 65 người bị thương. Cộng dồn 9 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố đã xảy ra 1.140 vụ tai nạn giao thông (tăng 712 vụ so với cùng kỳ năm 2023) làm 494 người chết (tăng 282 người) và 950 người bị thương (tăng 613 người). Trong đó: 1.120 vụ tai nạn giao thông đường bộ làm 479 người chết và 945 người bị thương; 20 vụ tai nạn đường sắt làm 15 người chết và 5 người bị thương.

 Bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ: Trong tháng, phát hiện 622 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 632 đối tượng; số vụ vi phạm về bảo vệ môi trường bị xử lý là 612 vụ với 626 đối tượng; thu nộp ngân sách hơn 5,4 tỷ đồng. Cũng trong tháng Chín, trên địa bàn Thành phố xảy ra 122 vụ cháy làm 3 người bị thương, trong đó 1 vụ cháy lớn; 16 vụ cháy trung bình và 105 vụ cháy nhỏ. Hiện tại cơ quan chức năng đang tiếp tục xác minh thiệt hại về tài sản. Cộng dồn 9 tháng năm 2024, trên địa bàn Thành phố phát hiện 6.724 vụ vi phạm về bảo vệ môi trường với 6.770 đối tượng; xảy ra 926 vụ cháy làm 25 người chết và 14 người bị thương (9 tháng năm 2023 xảy ra 186 vụ cháy làm 69 người chết và 48 người bị thương).

 Khái quát lại, trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực còn gặp khó khăn, ảnh hưởng do mưa bão gây thiệt hại trong đời sống và sản xuất nhưng với sự chủ động, chỉ đạo quyết liệt của Thành phố, kinh tế - xã hội Thủ đô đã đạt được các kết quả quan trọng: GRDP 9 tháng nay tăng 6,12% so với cùng kỳ năm trước; thu NSNN trên địa bàn tăng 23,1% và đạt 92,8% dự toán cả năm; vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước do địa phương quản lý tăng 34,9%; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 14,2%; khách du lịch đến Thủ đô gần 4,6 triệu lượt người, tăng 31,3%; tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tăng 10,5%, các lĩnh vực văn hóa, giáo dục tiếp tục phát triển, an sinh xã hội được bảo đảm. Tuy nhiên, trong 9 tháng qua kinh tế Thành phố cũng gặp nhiều khó khăn: Tốc độ tăng trưởng chậm so với kế hoạch; sản xuất công nghiệp, xây dựng chưa bứt phá được như kỳ vọng; sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiên tai; số vụ cháy nổ và an toàn giao thông tăng cao gây thiệt hại lớn về người và tài sản.

Thời gian tới dự báo tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường; kinh tế trong nước và Thành phố còn gặp nhiều khó khăn, thách thức từ các yếu tố tác động tiêu cực bên ngoài cũng như hạn chế, bất cập nội tại của nền kinh tế cần phải khắc phục. Để thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố năm 2024, nhiệm vụ 3 tháng cuối năm là rất lớn, đòi hỏi các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi đơn vị cần tiếp tục khẩn trương, tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra, đồng thời tập trung thực hiện một số nội dung sau:

 Một là, đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân tối đa nguồn vốn đầu tư công, huy động tốt nguồn vốn tư nhân cho đầu tư phát triển. Tập trung đảm bảo chất lượng và tiến độ xây dựng các dự án lớn, công trình trọng điểm có tính đột phá và giá trị lan tỏa cao, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tạo thêm năng lực sản xuất mới cho nền kinh tế. Quan tâm thực hiện hiệu quả Đề án xây dựng nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp; dự án hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng giao thông, hạ tầng khu công nghiệp, cụm công nghiệp; các dự án lĩnh vực giáo dục, y tế, tôn tạo di tích lịch sử.

 Hai là, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, tăng cường cải cách thủ tục hành chính gắn với chuyển đổi số, nâng cao chất lượng dịch vụ công trực tuyến. Củng cố, nâng cao năng lực sản xuất của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Tập trung rà soát để kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ cho doanh nghiệp thông qua các chính sách ưu đãi về tín dụng, giảm thuế, phí đất đai, xúc tiến thương mại.

 Ba là, tăng cường các biện pháp quản lý tốt thị trường, giá cả những tháng cuối năm; bảo đảm cân đối cung - cầu hàng hóa; tăng cường kiểm tra, kiểm soát hàng giả, hàng kém chất lượng. Thực hiện các chương trình kết nối tiêu thụ sản phẩm chế biến, nông sản, thúc đẩy phân phối hàng hóa qua nền tảng số, thương mại điện tử. Tăng cường quảng bá, xúc tiến du lịch, phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch gắn với tiềm năng, lợi thế của Thủ đô.

Bốn là, các doanh nghiệp tăng cường gắn kết lưu thông với sản xuất, đẩy mạnh liên kết chuỗi nhằm kết nối cung cầu, mở rộng việc tiêu thụ trên các sàn thương mại điện tử; đảm bảo phân phối sản phẩm hàng hóa gắn với quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm; thúc đẩy mạnh mẽ mô hình chuỗi liên kết phát triển nông nghiệp gắn với công nghiệp và xuất khẩu... Đồng thời, tiếp tục tìm kiếm và tích cực mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, chủ động áp dụng khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và tính cạnh tranh.

 Năm là, tạo cơ chế chính sách, hỗ trợ phục hồi sản xuất nông nghiệp đối với khu vực bị ảnh hưởng do cơn bão số 3; kiểm soát tốt dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm nhằm đảm bảo cung cấp thực phẩm tiêu dùng tăng cao dịp lễ, Tết cuối năm. Tiếp tục thực hiện hiệu quả việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng diện tích trồng lúa chất lượng cao, cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị kinh tế. Bám sát khung thời vụ, đồng thời theo dõi chặt chẽ diễn biến thời tiết, chủ động phòng chống thiên tai, cảnh báo mưa lũ nhằm hạn chế tối đa thiệt hại.

Sáu là, thực hiện tốt công tác an sinh, phúc lợi xã hội, lao động, việc làm; quan tâm, chăm sóc chu đáo đối với người có công, đối tượng trợ giúp xã hội, hỗ trợ kịp thời, đúng đối tượng thụ hưởng chính sách thường xuyên và đột xuất. Nâng cao vai trò, trách nhiệm, tăng cường công tác bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường và phòng chống cháy nổ. Thực hiện tốt Chỉ thị của Thành ủy Hà Nội và Nghị quyết của HĐND Thành phố về tăng cường công tác phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ trên địa bàn thành phố Hà Nội./.


File đính kèm